top of page

Ngũ Tự Văn Thù Arapacana Manjushri

  • Ảnh của tác giả: Jigme
    Jigme
  • 4 ngày trước
  • 30 phút đọc

Trong thế giới Phật giáo Đại Thừa, Bồ-tát Văn Thù Sư Lợi giữ vị trí vô cùng quan trọng. Ngài là hiện thân của trí tuệ siêu việt, bậc Pháp Vương Tử khai thị bản chất “bất nhị” trong Duy Ma Cật Sở Thuyết Kinh (Skt. Vimalakirti Nirdesha Sutra), giáo hóa chư Bồ-tát trong Bát Nhã Ba La Mật Đa Kinh (Skt. Prajnaparamita Sutra), cũng như xướng tụng những bài tán thán trong Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh (Skt. Buddhavatamsaka Nama Maha Vaipulya Sutra). Trải qua nhiều thế kỷ, các truyền thống Kim Cương Thừa đã kiến tạo và tái diễn tả tôn dung đức Văn Thù thành nhiều hóa thân phẫn nộ và an bình, song căn tính của ngài — bậc Bồ-tát của trí tuệ — vẫn giữ nguyên không đổi.


Giữa vô số hóa thân ấy, nổi bật hơn cả là Ngũ Tự Văn Thù Arapacana Manjushri, một hiện tướng vừa hàm ẩn ý nghĩa biểu tượng sâu sắc, vừa chứa đựng giá trị lịch sử đặc biệt.


15th-century Gyangtse-style thangka depicting Arapacana Mañjuśrī, flanked by Buddhas, bodhisattvas, and tantric protectors.
Tranh vẽ Bồ-tát Ngũ Tự Văn Thù Arapacana Manjushri bằng bột màu trên vải theo phong cách Gyangtse. Niên đại thế kỷ XV. Xuất xứ Tây Tạng. Wisdom Publications. Phía trên Bồ-tát là đức Phật Thích Ca Mâu Ni Shakyamuni (bên trái) và Phật Di Lặc Maitreya (bên phải), ở phía trung tâm là hai nữ thần cúng dàng. Ngự ở hai bên đức Văn Thù là Bồ-tát Kim Cương Thủ Vajrapani sắc xanh lam trong hình tướng an bình và Bồ-tát Quán Thế Âm Avalokiteshvara. Bên dưới hai Bồ-tát là một hình tướng Văn Thù Sư Lợi sắc xanh lam và Biện Tài Thiên Nữ Sarasvati sắc trắng, tay cầm đàn vina. Ở hàng dưới cùng, từ trái qua lần lượt là Mã Đầu Minh Vương Hayagriva (sắc đỏ, ba đầu sáu tay), Kim Cương Điều Phục Vajravidarana (xanh lục), Trứu My Quán Âm Bhurkumkuta (phẫn nộ, ba đầu sáu tay), Hộ Giới Chủ Đại Hắc Thiên Panjarnata Mahakala và Cát Tường Thiên Mẫu Shri Devi Dudsolma (cưỡi lừa).

Dấu Tích và Vai Trò của Ngũ Tự Arapacana


Để có được cái nhìn tường minh về Ngũ Tự Văn Thù Arapacana Manjushri, trước hết ta cần bắt đầu từ thuật ngữ “Arapacana”. Arapacana là một “bảng âm tiết” cổ của Ấn Độ, thường gồm bốn mươi hai (đôi khi lên đến bốn mươi bốn) ký tự, được đặt tên theo năm âm đầu tiên: a, ra, pa, ca, na. Theo hai nghiên cứu công bố năm 1990 và 1993, giáo sư Richard Salomon nhận định: “Dựa trên các bằng chứng lịch sử, văn khắc, chữ viết cổ và ngôn ngữ học, chúng ta có nhiều cơ sở vững chắc để khẳng định rằng, bảng âm tiết Arapacana ban đầu được hình thành trong vùng ngôn ngữ Gandhara (thuộc miền Tây–Bắc tiểu lục địa Ấn Độ) và được ghi lại bằng ký tự Kharosthi.” Bảng âm tiết này không sắp xếp phụ âm theo vị trí hay cách phát âm, mà dường như tuân theo một quy luật riêng. Trật tự phi ngữ âm ấy nhiều khả năng xuất phát từ nhu cầu sư phạm hơn là ý định hệ thống hóa ngữ âm học.


Arapacana xuất hiện trong nhiều kinh luận trọng yếu, từ lâu đã được dịch từ Phạm ngữ sang Hán văn và tiếng Việt. Tuy nhiên, hầu hết văn bản ở Việt Nam được dịch trực tiếp từ bản chữ Hán, vì vậy việc phiên âm trở nên thiếu nhất quán và hầu như không thể truy nguyên về cụm từ gốc. Đại Trí Độ Luận (Skt. Maha Prajnaparamita Sastra) do ngài Long Thụ (Nagarjuna) biên soạn vào khoảng thế kỷ II là một trong những tác phẩm sớm nhất nhắc đến Arapacana.

Luận giải: “Tự và ngữ”, đó chính là các đà-la-ni (Skt. dharani). Đối với tất cả các chữ đều bình đẳng, không có yêu ghét. Lại nữa, các chữ này khi nhân duyên chưa hội hợp thì cũng không có; rốt ráo cũng không có; hiện tại cũng chẳng tồn tại. Chúng chỉ trụ trong tâm chấp ngã và ngã sở, từ tâm nhớ nghĩ, phân biệt, giác quán mà khởi lời nói. Ấy là lời nói từ tâm tán loạn, không thấy được sự thật, tựa như gió lay mặt nước thì không thể thấy vật thật. “Bình đẳng” là đồng đẳng với tính không rốt ráo và niết-bàn (Skt. nirvana). Bồ-tát nhờ đà-la-ni này mà thông đạt vô ngại hết thảy pháp, đó gọi là “tự bình đẳng, ngữ bình đẳng”. Hỏi: Nếu nói tóm lược thì có năm trăm pháp môn đà-la-ni, nếu nói rộng ra thì có vô lượng pháp môn đà-la-ni. Vì sao nay lại nói “tự bình đẳng” đà-la-ni là cửa vào của tất cả đà-la-ni? Đáp: Bởi vì trước hết, nói một pháp lớn thì các pháp khác đều được hiển bày. Đây là cánh cửa ban đầu của tất cả đà-la-ni; nói được cửa đầu tiên thì các cửa khác cũng đều được nói. Lại nữa, tất cả các pháp đà-la-ni đều sinh ra từ sự phân biệt từ và ngữ. Bốn mươi hai mẫu tự (Skt. dvacatvarimshad akshara) là gốc của hết thảy chữ. Nhân chữ mà có lời, nhân lời mà có danh, nhân danh mà có nghĩa. Khi Bồ-tát nghe chữ, từ chữ mà thấu tỏ được nghĩa. Những chữ này bắt đầu từ A (阿) và kết thúc tại Dha (荼), ở giữa gồm bốn mươi chữ. Bồ-tát đắc pháp tự đà-la-ni này, khi nghe thấy chữ A trong mọi ngôn âm, liền tùy theo nghĩa mà biết rằng: hết thảy pháp từ sơ thủy vốn không có tướng sinh — adi nghĩa là “khởi thủy”, anutpada nghĩa là “bất sinh”. Khi nghe thấy chữ Ra (羅), liền biết hết thảy pháp lìa tướng uế trược — rajas nghĩa là “cấu uế”. Khi nghe thấy chữ Pa (波), liền biết hết thảy pháp nhập vào ý nghĩa tối thượng — paramartha nghĩa là “đệ nhất nghĩa”. Khi nghe thấy chữ Ca (遮), liền biết hết thảy hành đều chẳng phải hành — carya nghĩa là “hành động”. Khi nghe thấy chữ Na (那), liền biết hết thảy pháp không được, không mất, không đến, không đi — na- nghĩa là “không (bất)”. […] Khi nghe thấy chữ Dha (茶), liền biết hết thảy pháp ắt bất khả đắc — badham nghĩa là “tất yếu”. Ngoài chữ Dha không còn chữ nào khác; nếu có nữa thì cũng chỉ là phân nhánh từ bốn mươi hai mẫu tự này. Những chữ này thường tồn tại nơi thế gian, tương tục nối tiếp nhau và thâm nhập vào mọi ngôn ngữ, cho nên gọi là “vô ngại”. Giữa lãnh thổ này và quốc gia kia, tên gọi không cố định, cho nên gọi là “vô danh”. Nghe xong, thảy tận diệt, cho nên gọi là “diệt”. Vạn pháp thể nhập pháp tính đều bất khả đắc, huống là chữ có thể nói được. Vạn pháp không có tưởng và phân biệt, cho nên nói “bất khả thị”. Vì ý nghiệp phân biệt trước mà có khẩu nghiệp. Do nhân duyên của khẩu nghiệp mà thân nghiệp tạo ra chữ. Chữ là sắc pháp — hoặc mắt thấy, hoặc tai nghe — chúng sinh gượng đặt tên cho chúng. Không có nhân duyên nên nói “bất khả kiến”, “bất khả thư”. Các pháp thường không, như tướng của hư không, huống nữa là chữ, nói ra liền diệt mất. Đây chính là “Văn Tự Đà-la-ni”, là cửa vào của hết thảy đà-la-ni.

— Trích dịch Đại Trí Độ Luận Quyển 48, Phẩm 19 “Tứ Niệm Xứ”, bản chữ Hán của ngài Cưu Ma La Thập (Kumarajiva), hiệu đính theo nghiên cứu công bố năm 1977 của giáo sư John Brough.


13th-century Central Tibetan bronze of Arapacana Mañjuśrī, depicting the Bodhisattva of Wisdom in classic seated form. LACMA Collection.
Tượng Ngũ Tự Văn Thù Arapacana Manjushri bằng đồng. Niên đại thế kỷ XIII. Xuất xứ miền Trung Tây Tạng. Los Angeles County Museum of Art.

Ngay trong nội dung, ta dễ dàng nhận ra Đại Trí Độ Luận không xem Ngũ Tự Arapacana như huyền chú thần diệu, mà là “tùy niệm môn” (Skt. anusmriti-mukha) — một phương tiện trợ giúp cho việc ghi nhớ. Mỗi mẫu tự trở thành một cánh cửa dẫn vào Phật Pháp, mỗi âm tiết tương ứng với một thuật ngữ bắt đầu bằng hoặc hàm chứa âm tiết đó. Tất cả hợp lại thành bốn mươi hai “tự môn đà-la-ni”, bắt đầu từ A (ady-anutpada), Ra (rajas), Pa (paramartha), Ca (carya), Na (na-)…


Năm 1999, mười chín cuộn bản thảo viết tay bằng chữ Kharosthi trên vỏ cây bạch dương, có niên đại vào cuối thế kỷ I–đầu thế kỷ II, được phát hiện tại vùng Bajaur, miền Bắc Pakistan. Trong số này, bản thảo thứ năm mang mã hiệu BC 5 có giá trị đặc biệt quan trọng. Đây là mẫu vật duy nhất thuộc thời kỳ Gandhara còn bảo tồn tương đối nguyên vẹn ứng dụng của bảng âm tiết Arapacana.


Bản thảo gồm bốn mươi hai khổ thơ, mỗi khổ dài hai dòng, viết kín hai mặt. Ký tự đầu tiên của từng khổ chính là một mẫu tự trong Arapacana, bắt đầu từ A, Ra, Pa… và kết thúc tại Dha. Bài thơ dành phần lớn nội dung để tán dương đức Phật và các phẩm chất giác ngộ nơi ngài, đồng thời liên hệ đến nhiều giáo lý bát-nhã và tính không. Việc bản văn này xuất hiện bên ngoài hệ thống kinh điển góp phần xác nhận công dụng giáo khoa của bảng âm tiết Arapacana trong việc đào tạo tăng lữ Phật giáo thời kỳ đầu: vừa là công cụ giúp ghi nhớ ký tự và giáo lý, vừa mang tính thực hành nghi lễ và tâm linh.


Chức năng sư phạm của bảng âm tiết Arapacana còn được xác nhận rõ trong văn học Phật giáo thời kỳ đầu. Trong Phổ Diệu Kinh (Skt. Lalitavistara Sutra) — bộ trường kinh thuật lại thời niên thiếu của đức Phật Thích Ca (Shakyamuni) — thái tử Tất Đạt Đa (Siddhartha) từng khiến thầy giáo Biến Hữu (Vishvamitra) kinh ngạc khi ngài thông đạt toàn bộ sáu mươi tư loại chữ viết, trong đó có chữ Brahmi và Kharosthi. Kế đến, nhờ uy đức và trí tuệ của Phật, tất cả môn sinh tại đây đồng tuyên thuyết bảng âm tiết Arapacana gồm bốn mươi hai mẫu tự.

Khi ấy, mười nghìn đồng tử đang cùng Bồ-tát (thái tử Tất Đạt Đa) theo học thầy mình. Chứng kiến uy đức và trí tuệ lớn lao của Bồ-tát, họ phân biệt từng chữ và tuyên đọc như sau: “Chữ A (無; Skt. a-) phát ra âm thanh của vô thường (Skt. anitya), khổ (Skt. dukkha), không (Skt. shunya) và vô ngã (Skt. anatmaka). Chữ Ra (欲; Skt. rajas) phát ra âm thanh đoạn trừ những tham cầu về ái dục (Skt. raga), sân hận (Skt. dvesha) và si mê (Skt. moha). Chữ Pa (究; Skt. paramartha-satya-shuddha) phát ra âm thanh hiển bày toàn vẹn gốc ngọn chân tịnh (hàm ý chân lý tuyệt đối). Chữ Ca (行; Skt. carya) phát ra âm thanh tu đạo, phụng trì trong vô số kiếp. Chữ Na (不; Skt. na-) phát ra âm thanh lìa danh và sắc, chẳng thuận theo số đông. […] Chữ Dha (慧; Skt. badham) phát ra âm thanh trí tuệ của bố thí, trì giới, quảng học, viễn ly vọng tưởng.” Lúc bấy giờ, Bồ-tát vì các đồng tử mà phân biệt rõ ngọn nguồn từng chữ, khai diễn pháp môn âm thanh như vậy. Ngay tại thư đường, ngài tuần tự khai thị và giáo huấn, khiến cho ba vạn hai nghìn đồng tử phát tâm cầu đạo vô thượng chính chân. Đây là cách Bồ-tát đến học đường và thị hiện pháp “từ thầy mà học”.

— Trích dịch Phổ Diệu Kinh Quyển 3, Phẩm 6 “Nhập Thiên Từ”, bản chữ Hán của ngài Trúc Pháp Hộ (Dharmaraksha), hiệu đính theo nghiên cứu công bố năm 1977 của giáo sư John Brough. Kinh Phổ Diệu không sử dụng Hán tự biểu âm cho các mẫu tự, mà dùng luôn các chữ biểu nghĩa.


15th-century Tibetan bronze of Arapacana Mañjuśrī, the Bodhisattva of Wisdom, in serene seated posture. Rubin Museum of Art.
Tượng Ngũ Tự Văn Thù Arapacana Manjushri bằng đồng. Niên đại thế kỷ XV. Xuất xứ Tây Tạng. Rubin Museum of Himalayan Art.

Phổ Diệu Kinh được hình thành và trải qua nhiều thế kỷ phát triển ở Ấn Độ trước khi định hình hoàn chỉnh thành phiên bản như ta biết ngày nay. Các chủ đề trong kinh xuất hiện rộng rãi trong nghệ thuật đền tháp thời Gandhara, thậm chí truyền cảm hứng cho những chạm khắc tinh xảo ở quần thể đền Borobudur, Indonesia. Tác phẩm được dịch từ Phạm ngữ sang Hán văn bởi ngài Trúc Pháp Hộ năm 308, lấy tên “Phổ Diệu Kinh”, và bởi ngài Nhật Chiếu (Divakara) năm 683, lấy tên “Phương Đẳng Đại Trang Nghiêm Kinh”. Trong hai bản này, mẫu tự Arapacana chỉ xuất hiện ở bản dịch cổ hơn, còn dịch phẩm của ngài Nhật Chiếu đã thay thế bằng hệ âm tiết Brahmi.


Trích đoạn tương tự về mẫu tự Arapacana được lặp lại trong nhiều bộ kinh trọng yếu khác, chẳng hạn như:

  1. Nhị Vạn Ngũ Thiên Tụng Bát Nhã Ba La Mật Đa (Skt. Pancavimshati Sahasrika Prajnaparamita Sutra), Chương 9, đoạn 9.44 (theo bản dịch của 84000: Translating the Words of the Buddha).

  2. Bách Thiên Tụng Bát Nhã Ba La Mật Đa (Skt. Shata Sahasrika Prajnaparamita Sutra), Chương 16 “Nhập Tự Môn Đà-la-ni”, Phẩm “Trang Bị Đà-la-ni”, đoạn I 9,15 (theo bản dịch của Edward Conze). Ở Việt Nam lấy tên kinh là Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa, tương ứng Quyển 53, Hội thứ Nhất, Phẩm “Biện Đại Thừa”.

  3. Như Lai Đại Bi Nghĩa Giải (Skt. Tathagata Mahakaruna Nirdesha) thuộc Đại Phương Đẳng Đại Tập Kinh (Skt. Mahavaipulya Mahasamnipata Sutra), Chương 2, đoạn 2.561 (theo bản dịch của 84000: Translating the Words of the Buddha).


Đáng chú ý hơn, ngay trong Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm — một bộ kinh Đại Thừa tiêu biểu và hết sức phổ biến ở Việt Nam — bốn mươi hai mẫu tự Arapacana chính là bốn mươi hai cánh cửa giúp Thiện Tài Đồng tử (Sudhana) thâm nhập trí tuệ bát-nhã (Skt. prajna).

Bấy giờ, Thiện Tài liền đến chỗ ấy, cúi đầu đỉnh lễ, đứng qua một bên, bạch rằng: “Thánh giả! Con đã phát tâm Vô thượng Chính đẳng Chính giác, song chưa biết Bồ-tát học hạnh Bồ-tát thế nào, tu đạo Bồ-tát ra sao? Con nghe Thánh giả khéo hay dẫn dắt chỉ dạy, xin vì con mà khai thị!” Lúc ấy, đồng tử nói với Thiện Tài: “Thiện nam tử, ta đã đạt được Bồ-tát giải thoát môn tên là Thiện Tri Chúng Nghệ (bậc tinh thông muôn nghệ). Ta thường xướng trì những mẫu tự này. Mỗi khi xướng một chữ, ta vào được một cửa bát-nhã ba-la-mật như sau: Khi xướng mẫu tự A (阿), ta thâm nhập bát-nhã ba-la-mật môn tên là ‘dĩ Bồ-tát uy lực nhập vô sai biệt cảnh giới’. Khi xướng mẫu tự Ra (多), ta thâm nhập bát-nhã ba-la-mật môn tên là ‘vô biên sai biệt’. Khi xướng mẫu tự Pa (波), ta thâm nhập bát-nhã ba-la-mật môn tên là ‘phổ chiếu pháp giới’. Khi xướng mẫu tự Ca (者), ta thâm nhập bát-nhã ba-la-mật môn tên là ‘phổ luân đoạn sai biệt’. Khi xướng mẫu tự Na (那), ta thâm nhập bát-nhã ba-la-mật môn tên là ‘đắc vô y vô thượng’. […] Khi xướng mẫu tự Dha (陀), ta thâm nhập bát-nhã ba-la-mật môn tên là ‘nhất thiết pháp luân sai biệt tạng’. Thiện nam tử, khi ta xướng những mẫu tự như thế, lấy bốn mươi hai pháp môn bát-nhã ba-la-mật này làm đầu, ta vào được vô lượng vô số bát-nhã ba-la-mật môn. Thiện nam tử, ta chỉ biết Bồ-tát giải thoát môn Thiện Tri Chúng Nghệ này thôi. Còn như chư Đại Bồ-tát, nơi hết thảy pháp thiện xảo thế gian và xuất thế gian, đều nhờ trí tuệ và thông đạt để đến bờ bên kia. Các ngài thấu triệt mọi ngành nghệ mười phương, không sót thứ gì. Các ngài thông hiểu sâu xa văn tự, toán số, khéo chữa mọi bệnh bằng y phương và chú thuật.”

— Trích dịch Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh, Quyển 76, Phẩm 39 “Nhập Pháp Giới”, đoạn 418a07, bản chữ Hán của ngài Hỷ Học (Shikshananda), hiệu đính theo bản dịch tiếng Anh của 84000: Translating the Words of the Buddha. Bản thân phẩm này thường được xem là một bộ kinh độc lập, mang tên Đại Trang Nghiêm Kinh (Skt. Gandavyuha Sutra). Tuy nhiên, ở Việt Nam cũng thường gọi đây là Kinh Hoa Nghiêm, do đó dẫn đến nhiều nhập nhằng khi trích dẫn. Khi đứng riêng như một kinh độc lập, trích đoạn này thuộc Chương 47 “Thiện Tri Chúng Nghệ (Shilpabhijna)”.


Tuy vậy, không phải lúc nào bảng âm Arapacana cũng bao hàm đủ bốn mươi hai mẫu tự. Khi đối chiếu với kinh Hiền Kiếp (Skt. Bhadrakalpika Sutra) bản chữ Hán, được ngài Trúc Pháp Hộ dịch vào khoảng thế kỷ IV — cùng thời với bản Phổ Diệu Kinh do chính ngài chuyển ngữ — bảng âm Arapacana chỉ còn mười sáu chữ.

Phật nói: “Này Hỷ Vương (Pramodyaraja), do đạt được tam-muội (Skt. samadhi) liễu tri bản nguyên của các pháp, nên chư Bồ-tát hiểu rằng hết thảy pháp không có điên đảo; các pháp bất động, không thể bị nghiêng đổ. Vì vậy, chí nguyện của các ngài là độ thoát ngũ thú (năm cõi), hàng hóa các loài ma, khiến chúng tự nhiên quy phục. Các ngài được mọi hữu tình trong thế gian ái kính, được những bậc trí giả khâm ngưỡng. Các ngài thông suốt mọi pháp và phi pháp. Đức hạnh và minh tuệ của các ngài rực rỡ như vầng trăng rằm tỏa giữa trời sao. […] Các ngài vào cửa tổng trì (thâm nhập pháp môn đà-la-ni) mười sáu chữ và biết rõ đích đến; có thể tuyên bày như thế thì liền đắc tổng trì. Những gì là mười sáu? Một là A (無), hai là Ra (度), ba là Pa (行), bốn là Ca (不), năm là Na (持), sáu là Da (礙), bảy là Sa (作), tám là Ka (堅), chín là Tha (勢), mười là Pa (生), mười một là Ba (攝), mười hai là Ksha (盡), mười ba là Cha (蓋), mười bốn là Pa (已), mười lăm là Tha (住), và mười sáu là Dha (燒). Đây là áo nghĩa của mười sáu mẫu tự. Nếu hiểu và hành theo giáo lý mười sáu mẫu tự này, ắt đạt tới địa chứng đắc vô lượng pháp môn tổng trì, thấu triệt hết thảy pháp mà được tự tại, chọn tìm tất thảy tuệ ý của chúng sinh, loại bỏ mọi trần lao (xúc tình tiêu cực) và thường tuyên nói Phật đạo. Người ấy nhận được sức đại uy thần, thông đạt chân pháp, độ thoát dân chúng, khai hóa và làm lợi ích cho họ. Ngôn âm của người ấy hòa nhã như chim ai loan (tức ca-lăng-tần-già; Skt. kalavinka), và đạt đến địa ‘phổ trụ bình đẳng’”.

— Trích dịch Hiền Kiếp Kinh, Quyển 1, Phẩm 1 “Vấn Tam Muội”, bản chữ Hán của ngài Trúc Pháp Hộ, hiệu đính theo bản dịch tiếng Anh của 84000: Translating the Words of the Buddha.


Ở Việt Nam, kinh Hiền Kiếp thường chỉ được dịch một phần, hầu hết bắt đầu và kết thúc tại chương Phật thuyết danh hiệu của một nghìn đức Phật trong hiền kiếp (Skt. bhadrakalpika) hiện tại. Theo đó, tên kinh cũng được thay đổi tương ứng thành Hiện Tại Hiền Kiếp Thiên Phật Danh. Vì lý do này, bảng mẫu tự Arapacana càng trở nên xa lạ với Phật tử Đại Thừa ở Việt Nam.


Theo dòng lịch sử, Arapacana dần chuyển mình từ vai trò sư phạm — vốn để trợ giúp hành giả liên hệ mỗi âm với một khía cạnh của giáo lý bát-nhã — sang chức năng nghi lễ và hành trì. Dưới ảnh hưởng ngày càng sâu rộng của các truyền thống đà-la-ni và mật điển (Skt. tantra), Arapacana được nâng tầm thành biểu tượng thâm mật của trí tuệ tính không. Dần dà, năm âm đầu tiên — A, Ra, Pa, Ca, Na — được hợp nhất vào chân ngôn (Skt. mantra) và hồng danh của đức Đại Trí Văn Thù, tạo nên hiện tướng nổi tiếng và tiêu biểu nhất của bản tôn: Ngũ Tự Văn Thù Arapacana Manjushri.


Late 11th-century Tibetan painted wood manuscript covers depicting five key Mahāyāna deities above—Vajrapāṇi, Arapacana Mañjuśrī, Śākyamuni, Ṣaḍakṣarī Avalokiteśvara, and Tārā—and wrathful protectors below. The Metropolitan Museum of Art.
Cặp bìa kinh vẽ bằng màu keo trên gỗ. Niên đại cuối thế kỷ XI. Xuất xứ Tây Tạng. The Metropolitan Museum of Art. Bìa trên khắc họa các bản tôn trọng yếu trong Phật giáo Đại Thừa: Bồ-tát Kim Cương Thủ Vajrapani và Ngũ Tự Văn Thù Arapacana Manjushri, đức Phật Thích Ca, Bồ-tát Lục Tự Quán Âm Shadakshari Avalokiteshvara và Lục Độ Mẫu Tara. Năm vị đại diện cho phương pháp và hành trì đúng đắn, sự giác ngộ, lòng từ bi và sự bảo hộ trước những khổ nạn thế gian. Bìa dưới minh họa các hộ pháp phẫn nộ, gồm Bất Động Minh Vương Achala, Uy Quang Thiên Mẫu Marichi, một vị Bồ-tát, Đại Tùy Cầu Bồ-tát Mahapratisara và Đại Hắc Thiên Mahakala. Tuy bắt nguồn từ nghệ thuật Bắc Ấn, các hình tượng này chỉ được nhóm lại với nhau ở Tây Tạng.

Bước Chuyển Mình trong Dòng Chảy Kim Cương Thừa


Đến thế kỷ VI–VIII, khi Phật giáo Kim Cương Thừa bắt đầu phát triển mạnh, quan niệm về âm thanh như sự hiển lộ trực tiếp của thực tại và tính thiêng dần trở nên phổ biến. Chân ngôn và đà-la-ni được xem là “kim cương ngữ” (Skt. vagvajra) — lời nói chân thật của chư Phật và Bồ-tát giác ngộ. Mỗi âm tiết lúc này hàm chứa tinh túy của tuệ giác, trở thành một chủng tử tự (Skt. bija) linh thiêng, phản ánh xu hướng tinh giản toàn bộ tạng kinh đồ sộ thành những mẫu thức chân ngôn cô đọng, khơi dậy khả năng trực ngộ nơi hành giả tín thành. Nhiều khả năng đây chính là giai đoạn Arapacana chuyển mình từ chức năng hỗ trợ ghi nhớ giáo lý sang thành hiện thân của tuệ giác qua bờ. Bởi lý do này, mối liên hệ giữa Arapacana và Văn Thù Sư Lợi Bồ-tát ngày càng trở nên rõ nét — cả hai đều biểu trưng cho trí tuệ bát-nhã vượt thoát luân hồi.


Một trong những bằng chứng văn bản sớm nhất kết nối Arapacana với Văn Thù Bồ-tát là Mật điển Nhất Dũng Thành Tựu (Skt. Siddhaikavira Tantra). Tác phẩm được phân vào nhóm Mật điển Hành (Skt. Kriyatantra), không rõ niên đại khởi nguyên, song chắc chắn được dịch sang tiếng Tạng dưới thời vua Tridé Tsenpo (766–815). Mật điển bao gồm năm mươi lăm câu chân ngôn cùng phần chú giải, mỗi câu mang một năng lực, lợi ích và công dụng cụ thể. Xuyên suốt nội dung, nhiều biệt hiệu và hồng danh của đức Văn Thù được đề cập đến và sử dụng thay thế lẫn nhau, như Nhất Dũng Thành Tựu Siddhaikavira, Diệu Âm Văn Thù Manjughosha, Kim Cương Văn Thù Manjuvajra, Ngữ Chí Tôn Vagishvara và Ngũ Tự Arapacana.

Om vajratikshna duhkhaccheda prajna jnana murtaye | Jnanakaya vagishvara arapacanaya te namah || Om, Kim Cương Lợi Vajratikshna! Ngài là đấng cắt đứt mọi khổ đau! Là hiện thân của trí tuệ và tri thức! Tri thức thân, bậc Ngữ Chí Tôn Vagishvara — Xin kính lễ đấng Ngũ Tự Arapacana!

— Chân ngôn thứ bốn mươi mốt trong Mật điển Nhất Dũng Thành Tựu, trích dịch theo bản tiếng Anh của 84000: Translating the Words of the Buddha.

Đáng chú ý hơn, ở chân ngôn thứ bốn mươi tám trong cùng mật điển, ta bắt gặp manh mối về câu mantra nổi tiếng nhất của Bồ-tát Văn Thù:

Om arapacana dhih svaha |

Bên dưới chân ngôn, bản văn hướng dẫn hành giả quán tưởng tự thân thành Bồ-tát Văn Thù trong hồng danh Ngữ Chí Tôn. Văn bản cũng nêu tên, phương vị và đặc điểm của bốn bản tôn quyến thuộc, đồng thời chỉ rõ lợi ích của việc trì tụng và thực hành:

Tu tập theo phương pháp này, trong vòng sáu tháng, hành giả sẽ thấu suốt mọi luận điển — từ ý nghĩa đến văn phạm — dù trước đó chưa từng nghe qua. Sau một năm, hành giả sẽ đạt đến cảnh giới Ngữ Chí Tôn. Đây chính là cách hành trì pháp luân của Ngũ Tự Arapacana.

Đến cuối thiên niên kỷ thứ I, hình tượng Ngũ Tự Văn Thù đã được định hình vững chắc trong nghệ thuật và nghi lễ. Có đến tám nghi quỹ Ngũ Tự Văn Thù xuất hiện trong Mật Pháp Nghi Quỹ (Skt. Sadhanamala) — tuyển tập các nghi quỹ (Skt. sadhana) được kết tập tại Ấn Độ từ khoảng thế kỷ V–XI. Những mô tả về bản tôn trong tác phẩm này rất tương đồng với phần quán tự thân trong Mật điển Nhất Dũng Thành Tựu (thuộc chân ngôn thứ bốn mươi tám). Theo đó, đức Văn Thù có sắc trắng hoặc vàng cam, quang dung rạng rỡ như vầng trăng rằm, miệng mỉm cười hiền dịu. Bản tôn an tọa trong tư thế kim cương (Skt. vajrasana) trên đài sen trắng và đĩa mặt trăng, thân trang hoàng thiên y và phục sức hoàng gia, tay phải giương cao bảo kiếm trí tuệ, tay trái cầm kinh bát-nhã.


19th-century thangka from Kham, Eastern Tibet, depicting Arapacana Mañjuśrī painted in mineral pigments on cloth. Rubin Museum of Art.
Tranh vẽ Ngũ Tự Văn Thù Arapacana Manjushri bằng bột màu trên vải. Niên đại thế kỷ XIX. Xuất xứ tỉnh Kham, miền Đông Tây Tạng. Rubin Museum of Art.

Ngài được hộ giá bởi bốn bản tôn, tạo thành cấu trúc mandala Ngũ Tôn đăng đối:

  1. Văn Thù Sư Lợi ngự ở trung tâm, khởi hiện từ mẫu tự A.

  2. Nhật Quang Suryaprabha (hoặc Võng Quang Jaliniprabha) đứng ở phía trước, ngự trên đĩa mặt trời và trì giữ hoa sen xanh lam, khởi hiện từ mẫu tự Ra.

  3. Nguyệt Quang Candraprabha đứng ở phía sau, ngự trên đĩa mặt trăng và trì giữ hoa sen xanh lam, khởi hiện từ mẫu tự Pa.

  4. Phát Nữ Keshini đứng ở bên phải, trì giữ hoa sen đỏ, khởi hiện từ mẫu tự Ca.

  5. Cận Phát Nữ Upakeshini đứng ở bên trái, trì giữ hoa sen đỏ, khởi hiện từ mẫu tự Na.


Vì năm vị khởi xuất từ năm mẫu tự A, Ra, Pa, Ca, Na, nên bản tôn chủ — Văn Thù Sư Lợi Bồ-tát — cũng được tôn xưng là đức Ngũ Tự Arapacana.


Song song với việc dung hợp vào hồng danh và biểu tượng học Văn Thù, mỗi âm tiết giờ đây cũng được Phật giáo Kim Cương Thừa tái diễn giải để phù hợp với giáo lý và nghi quỹ bản tôn. Theo đức Jampal Dewé Nyima (một trong những đạo sư chính của đức Dudjom Rinpoche, thuộc truyền thừa Nyingma), chân ngôn “Om Arapacana Dhih” của Bồ-tát Văn Thù nêu biểu cho những khía cạnh thâm mật của ba giai đoạn.


1. Giai Đoạn Khởi Sinh


  • Om biểu trưng cho Ngũ Trí và Ngũ Thân; ý nghĩa này áp dụng cho cả ba giai đoạn.

  • A biểu trưng cho chính định “chân như”, vượt ngoài sinh, trụ, diệt và đầy đủ mọi phẩm tính tối thắng.

  • Ra biểu trưng cho chính định “đại quang minh” — sự hiển lộ vô biên của lòng đại bi bao la như hư không, khởi xuất từ chân như và chu biến khắp pháp giới.

  • Pa biểu trưng cho chính định “nhân duyên”, là chủng tử tự hóa hiện thành giọt minh điểm (Skt. bindu) bất hoại từ trạng thái đại lạc. Đây là sự hợp nhất bất phân giữa hai chính định kể trên.

  • Ca biểu trưng cho việc quán tưởng đức Văn Thù Sư Lợi, bậc hộ pháp bản lai, trong cảnh giới mandala thanh tịnh của toàn bộ sự vật hiện tượng, từ đó hiển lộ trí tuệ quang minh.

  • Na biểu trưng cho việc thỉnh mời Trí Tôn (Skt. jnanasattva) từ không gian vô biên của chính định, hợp nhất bất khả phân với Thệ Nguyện Tôn (Skt. samayasattva) để trở thành “nhất vị”. Mẫu tự này cũng biểu thị cho việc làm hoan hỷ bản tôn bằng phẩm vật cúng dàng (lưới đế châu của sắc tướng hiện tượng) và tán thán (pháp vị bình đẳng của sự bất phân).

  • Dhih biểu trưng cho việc trì tụng, trong đó âm thanh không rời chính định “pháp tính” (Skt. dharmata). Đây là sự hòa tan toàn bộ tịnh sắc bản tôn trong giai đoạn khởi sinh vào pháp giới (Skt. dharmadhatu) — không gian phổ quát của tính không vĩ đại. Đây là thủ ấn thâm mật của hồi hướng và phát tâm vô thượng.


18th-century Tibetan thangka of white Arapacana Mañjuśrī in Ngor style, with Sakya lineage lamas above and Vajrapāṇi, Ṣaḍakṣarī Avalokiteśvara, and Pañjaranātha Mahākāla below. Rubin Museum of Art.
Tranh vẽ Ngũ Tự Văn Thù Arapacana Manjushri bằng bột màu trên vải. Niên đại thế kỷ XVIII. Xuất xứ Tây Tạng. Rubin Museum of Art. Trong bức tranh này, Bồ-tát Văn Thù mang thân sắc trắng, đúng theo miêu tả của Mật điển Nhất Dũng Thành Tựu (Skt. Siddhaikavira Tantra). Tác phẩm này được vẽ theo phong cách Ngor, một tự viện thuộc truyền thống Sakya, do đó ở phía trên Bồ-tát là ba vị lama thuộc truyền thừa này. Bên dưới tòa sen của Bồ-tát, từ trái sang phải, lần lượt là Bồ-tát Kim Cương Thủ Vajrapani, Lục Tự Quán Âm Shadakshari Avalokiteshvara và Hộ Giới Chủ Đại Hắc Thiên Panjarnata Mahakala.

2. Giai Đoạn Thành Tựu


  • A biểu trưng cho trí tuệ sẵn có nơi đại lạc “vô sinh địa” — thuần tịnh, tinh túy, bản lai và bất hoại.

  • Ra biểu trưng cho chủng tử tự nơi giọt minh điểm tại luân xa rốn, trong thân lục đại gồm bốn luân xa và ba đường kinh mạch. Đặc biệt, tại luân xa rốn có một nét chữ A đỏ mang tính lửa, còn tại đỉnh đầu có chữ Han đảo ngược, là tinh túy của giọt minh điểm đại lạc — giọt tinh chất trắng thuần tịnh.

  • Pa biểu trưng cho hành giả an tọa trong tư thế bảy điểm của đức Đại Nhật Như Lai Vairochana, vận dụng bốn phương pháp hít thở bình để đưa sinh khí từ ba đường kinh mạch lên an trụ tại luân xa tim. Sau đó, hành giả dẫn sinh khí từ kinh mạch âm (Skt. lalana) và kinh mạch dương (Skt. rasana) vào kinh mạch trung ương (Skt. avadhuti). Nội hỏa khởi phát từ nét chữ A, thăng hoa xuyên qua các luân xa và chạm đến chủng tử tự Han trên đỉnh đầu. Khi ấy, đại lạc tan chảy từ đỉnh đầu xuống cổ, tim, rốn và vị trí bí mật. Hành giả trải nghiệm bốn hỷ lạc từ dưới lên, qua đó hiển lộ trí tuệ bản lai. Sau đó, bằng việc thực hành yoga và điều khiển sinh khí, đại lạc lại dâng ngược qua các luân xa, khiến tâm khởi sinh trí tuệ vô phân biệt và thành tựu thần thông (Skt. siddhi).

  • Ca biểu trưng cho việc vận dụng hoàn hảo những chỉ dạy then chốt về sinh lực — trí tuệ của đại lạc — và thực hành với chính thân thể mình (tức nội hỏa); rồi sau đó là với người phối ngẫu (phương tiện thiện xảo) trong yoga phụ–mẫu.

  • Na biểu trưng cho hành giả nương vào phương tiện thiện xảo — người phối ngẫu quán tưởng hoặc thực tế — để thành tựu trí tuệ đại lạc của “năng lượng cha” hướng hạ và “năng lượng mẹ” hướng thượng, nhờ đó chứng đắc trí tuệ vô phân biệt trong Kiến đạo (Skt. darshana-marga).

  • Dhih biểu trưng cho việc vượt qua bốn bậc “trì minh” (Skt. vidyadhara) trên Học đạo và đắc quả Vô Học — quả vị “Kim Cương Trì” (Skt. Vajradhara) với bảy khía cạnh hợp nhất cùng bậc phối ngẫu, cũng là bảy phẩm chất của một Báo thân Phật.


3. Đại Toàn Thiện


  • A biểu trưng cho tâm thức thông thường khi không bị vấy bẩn bởi những tạo tác — chính là Pháp thân (Skt. dharmakaya) vĩ đại, có bản chất vượt trên mọi ngôn từ, suy niệm và mô tả. Việc chứng ngộ Pháp thân giúp dẫn nhập trực tiếp vào bản thể của giác tính.

  • Ra biểu trưng cho quang minh của Pháp thân — thân bất diệt — xuất hiện như một hiển bày bất tận của thân và trí tuệ. Khi không chấp thủ điều này, hành giả đạt được niềm tin xác quyết vào bản thể, hiển hiện và trang nghiêm — ánh quang minh nội tại của pháp tính, không thêm không bớt. Đây là sự chứng ngộ Báo thân (Skt. sambhogakaya), sự quyết định nơi một và chỉ một.

  • Pa biểu trưng cho sự an trú vô tác trong trạng thái bản nhiên, bất hoại khi chính niệm và tính không hợp nhất, không còn “năng trú” và “sở trú”. Đây là trí tuệ của Hóa thân (Skt. nirmanakaya) — niềm tin kiên cố vào sự giải thoát trực tiếp của niệm khởi.

  • Ca biểu trưng cho niềm tin chững chãi vào quan kiến ấy, và trên nền tảng của ba điểm trọng yếu, giữ tâm vô chấp trước mọi pháp khởi hiện theo vô số cách, qua các cửa quang minh ngoại hiển trên đạo lộ của bốn ngọn đèn.

  • Na biểu trưng cho sự dung hợp của những pháp yếu này, nhờ đó hành giả vượt qua đạo lộ của bốn linh kiến. Sau đó, trong không nội quang minh, sự hiển hiện của ngoại quang minh hòa tan vào không gian nội tại nhờ sáu phẩm tính đặc biệt của đức Phật Phổ Hiền Samantabhadra.

  • Dhih biểu trưng cho sự thành tựu lợi ích tự thân, chứng quả giác ngộ tối thượng, để trong vô lượng kiếp, hành giả hiển lộ thân quang minh của đại chuyển di và hành thiện đại bi miên viễn.


Xuyên suốt lịch sử Phật giáo, dù được diễn giải theo cách nào, mẫu tự Arapacana vẫn luôn gắn liền với minh triết bát-nhã và giáo lý tính không. Chính vì vậy, hiện tướng Ngũ Tự Văn Thù Arapacana Manjushri càng trở nên nổi bật như một hiện thân của trí tuệ siêu việt. Vượt ra ngoài phạm vi kinh luận, danh tự và chân ngôn, khi được nhìn qua lăng kính mỹ thuật và điêu khắc, căn tính ấy một lần nữa được khẳng định qua từng chi tiết trong sắc tướng và quang dung.


18th-century thangka from Tibet, depicting Arapacana Mañjuśrī painted in mineral pigments on cloth. Himalayan Art Resources.
Tranh vẽ Ngũ Tự Văn Thù Arapacana Manjushri bằng bột màu trên vải. Niên đại thế kỷ XVIII. Xuất xứ Tây Tạng. Himalayan Art Resources.

Ý Nghĩa Biểu Tượng trong Hiện Tướng Ngũ Tự Văn Thù


Trong nghệ thuật Kim Cương Thừa, Ngũ Tự Văn Thù là hiện thân nổi tiếng và phổ biến nhất của Bồ-tát Văn Thù. Sắc tướng của ngài mang tính mô phạm cao và tương đối nhất quán giữa các truyền thống, niên đại và vùng miền. Tuy vẫn có một số sai biệt nhỏ trong màu sắc hoặc tư thế bản tôn, song nhìn chung chúng không làm thay đổi ý nghĩa biểu tượng căn bản.


Theo một số mật điển cổ, sắc thân Bồ-tát mang màu trắng tinh khôi, biểu trưng cho trí tuệ thanh tịnh không tỳ vết. Tuy nhiên, trong Phật giáo Kim Cương Thừa về sau, ngài thường được mô tả với sắc vàng cam rực rỡ như mặt trời bình minh — tượng trưng cho ánh thái dương xua tan đêm đường hư vọng. Trên thực tế, sắc cam này không đồng nhất giữa các nghệ nhân và thời kỳ, có thể ngả sang vàng nghệ, vàng cam hoặc cam tươi.


Thangka from Tibet, depicting Arapacana Mañjuśrī painted in mineral pigments on cloth. Himalayan Art Resources.
Tranh vẽ Ngũ Tự Văn Thù Arapacana Manjushri bằng bột màu trên vải. Không rõ niên đại. Xuất xứ Tây Tạng. Himalayan Art Resources.

Thân thể ngài được miêu tả là tươi trẻ như một thiếu nam mười sáu tuổi, vừa ứng với miêu tả trong kinh điển là một bậc “đồng tử” (Skt. kumara), nêu biểu cho sự tươi mới bất tận của tuệ giác — không bao giờ già cỗi, luôn linh hoạt và thường hằng hiện hữu. Quang dung ngài hiền hòa, đôi mắt khép hờ đầy giác tỉnh, dường như đang quán chiếu tính không, an trụ trong chính niệm vô phân biệt. Nụ cười mỉm trên môi phản ánh tâm nguyện đại bi, biểu lộ rằng trí tuệ đích thực không tách rời lòng từ bi và hạnh nguyện độ sinh.


Trên đỉnh đầu, ngài đội vương miện năm đỉnh, tượng trưng cho Ngũ Trí Phật. Năm viên ngọc trên vương miện cũng đại diện cho Ngũ Vô Ngại Trí: Đại viên kính trí, Bình đẳng tính trí, Diệu quan sát trí, Thành sở tác trí và Pháp giới thể tính trí. Đôi khi tóc ngài được kết thành năm búi trên đỉnh đầu, vừa biểu thị Ngũ Trí, vừa là hình ảnh ẩn dụ cho thánh địa Ngũ Đài Sơn — trụ xứ của đức Văn Thù tại Trung Quốc. Một chi tiết đáng lưu ý là trên đỉnh đầu Bồ-tát không có linh ảnh đức Phật chủ, bởi ngài là một trong những bản tôn cổ xưa nhất được tôn thờ độc lập, trước cả khi khái niệm Ngũ Bộ Phật hình thành trong Phật giáo Kim Cương Thừa.


Thân thể đức Ngũ Tự được trang hoàng bằng thiên y lụa và trang sức ngọc của Báo thân, mỗi món nêu biểu cho một ba-la-mật (Skt. paramita) toàn hảo:

  1. Nhẫn nhục (Skt. kshanti): khuyên tai vàng.

  2. Bố thí (Skt. dana): ba chuỗi vòng cổ ngắn, trung bình và dài, lần lượt chạm chạm tới cổ, tim và rốn.

  3. Trì giới (Skt. shila): vòng cổ tay, vòng cánh tay và vòng chân.

  4. Tinh tiến (Skt. virya): thắt lưng ngọc gắn chuông bạc nhỏ.

  5. Thiền định (Skt. dhyana): mũ miện năm đỉnh.

  6. Trí tuệ (Skt. prajna): ngọc như ý hoặc hỏa ngọc trên búi tóc.


Ngài ngồi bắt tréo chân trong tư thế kim cương (Skt. vajrasana), an trụ trong giác tính bản lai, vững chãi như tòa kim cương bất hoại. Đôi khi ngài được thể hiện trong tư thế đứng thẳng, hai chân song song tượng trưng cho tự do tuyệt đối, không còn dính mắc trong luân hồi (Skt. samsara) và niết-bàn (Skt. nirvana). Bên dưới ngài là đĩa mặt trăng và đài sen: đĩa mặt trăng nêu biểu cho bồ-đề tâm (Skt. bodhichitta) vô ngã, còn đài sen là biểu tượng của tâm buông xả hoàn toàn. Cũng có nơi thể hiện Bồ-tát thõng một chân trong thế “an nhiên du hý” (Skt. lalitasana), biểu thị rằng ngài luôn sẵn sàng hòa đồng cứu thế, độ thoát chúng sinh.


Thangka depicting Arapacana Mañjuśrī painted in mineral pigments on cloth. Himalayan Art Resources.
Tranh vẽ Ngũ Tự Văn Thù Arapacana Manjushri bằng bột màu trên vải. Không rõ niên đại và xuất xứ. Himalayan Art Resources.

Tay phải ngài giương cao bảo kiếm trí tuệ (Skt. jnana-khadga) — đặc điểm tiêu biểu nhất, cũng là tâm điểm của toàn bộ hình tượng. Thanh kiếm tượng trưng cho năng lực cắt đứt mọi trói buộc của hư vọng, xuyên thủng bức màn vô minh đang che lấp chân lý tuyệt đối. Chuôi kiếm thường được tạc hình chày kim cương (Skt. vajra) và an trí chủng tử tự Dhih, tượng trưng cho trí tuệ bát-nhã trực ngộ tính không. Hai cạnh sắc bén của lưỡi kiếm biểu lộ tính bất phân giữa chân lý tương đối và chân lý tuyệt đối; mũi kiếm sắc nhọn là sự toàn hảo của trí tuệ. Quanh lưỡi kiếm thường có một dải lửa nhỏ xoắn quanh — đó chính là quang minh của tri kiến vô ngại, biểu tượng của sự toàn giác.


Tay trái ngài hoặc cầm cuống hoa sen xanh (Skt. utpala) nâng đỡ bộ kinh Bát Nhã Ba La Mật Đa, hoặc giữ bộ kinh ở trước ngực — kiểu thể hiện phổ biến hơn trong những tác phẩm cổ. Trong trường hợp đầu tiên, cành sen thường nở hoa mãn khai bên vai trái, biểu thị rằng tuệ giác có thể sinh khởi ngay trong luân hồi uế trược mà không bị vấy nhiễm, như hoa sen mọc từ bùn mà chẳng hôi tanh. Tạng kinh Bát Nhã là cội nguồn của trí tuệ và cũng là căn nguyên của hình tượng Bồ-tát Văn Thù. Trên hai tay ngài, cặp pháp khí này đồng thời đại diện cho trí tuệ siêu việt (kinh điển) và phương tiện thiện xảo (bảo kiếm) — hai nền tảng hợp nhất thành sự giác ngộ viên dung.


Trí Tuệ Siêu Việt nơi Ngôn Âm, Sắc Tướng


Trải qua gần hai thiên niên kỷ, từ bảng âm tiết viết trên vỏ cây bạch dương đến giáo lý Đại Toàn Thiện thâm mật trong Phật giáo Tây Tạng, các mẫu tự Arapacana chưa bao giờ tách rời giáo lý bát-nhã và tính không. Không chỉ là phương tiện giúp hành giả quán chiếu và thâm nhập giáo pháp, bảng mẫu tự ấy đã trở thành biểu tượng cho chính trí tuệ giác ngộ. Khi được dung nạp vào hình tượng Ngũ Tự Văn Thù, ý nghĩa ấy càng trở nên trọn vẹn.


Âm thanh của chân ngôn, biểu tướng của bản tôn — hai khía cạnh tổng hòa thành một chỉnh thể bất phân, phản ánh trọn vẹn mọi phương diện của giác ngộ. Trong dòng chảy Phật giáo, bậc Đại Trí Văn Thù Sư Lợi mãi là biểu tượng phổ quát của trí tuệ cứu khổ độ mê, vượt ngoài mọi biên giới địa lý, văn hóa và thời gian.


Tinh thần Bồ-tát đạo ấy được đúc kết trọn vẹn qua hai khổ thơ trong tác phẩm Nhập Bồ-tát Hạnh (Skt. Bodhisattvacharyavatara), do ngài Tịch Thiên (Shantideva) trước tác vào thế kỷ VII–VIII:

Để viên mãn đủ đầy nguyện ước Của mười phương vô lượng chúng sinh, Nguyện con sống hạnh quang vinh Diệu Âm song vận trí minh Văn Thù. Đến khi nào thời không còn trụ, Cõi thế gian vẫn đủ một người, Nguyện con giữ mãi nụ cười, Xua tan khổ lụy, giúp đời không ngơi.

— Khổ thơ 54–55, Phẩm 10 “Hồi Hướng”, trích dịch theo bản tiếng Anh năm 1979 của Stephen Batchelor.


Dịch và biên khảo: Jigme


Tư Liệu Tham Khảo


  1. 84000: Translating the Words of the Buddha. The Good Eon (Bhadrakalpika, bskal pa bzang po, Toh 94). Translated by Dharmachakra Translation Committee. Online publication, 2025. https://84000.co/translation/toh94

  2. 84000: Translating the Words of the Buddha. The Perfection of Wisdom in Twenty-Five Thousand Lines (Pañcaviṃśatisāhasrikāprajñāpāramitā, shes rab kyi pha rol tu phyin pa stong phrag nyi shu lnga pa, Toh 9). Translated by Padmakara Translation Group. Online publication, 2025. https://84000.co/translation/toh9

  3. 84000: Translating the Words of the Buddha. The Play in Full (Lalitavistara, rgya cher rol pa, Toh 95). Translated by Dharmachakra Translation Committee. Online publication, 2025. https://84000.co/translation/toh95

  4. 84000: Translating the Words of the Buddha. The Tantra of Siddhaikavīra (Siddhaika­vīra­tantram, dpa’ bo gcig pu grub pa’i rgyud, Toh 544). Translated by Dharmachakra Translation Committee. Online publication, 2023. https://84000.co/translation/toh544

  5. 84000: Translating the Words of the Buddha. The Teaching on the Great Compassion of the Tathāgata (Tathāgatamahākaruṇānirdeśa, de bzhin gshegs pa’i snying rje chen po nges par bstan pa, Toh 147). Translated by Anne Burchardi and team. Online publication, 2025. https://84000.co/translation/toh147

  6. 84000: Translating the Words of the Buddha. The Stem Array (Gaṇḍa­vyūha, sdong pos brgyan pa, Toh 44-45). Translated by Peter Alan Roberts and team. Online publication, 2025. https://84000.co/translation/toh44-45

  7. Amoghavajra, trans. Trailokyavijayamahākalparāja: Vajraśekhara Sūtra (金剛頂經瑜伽文殊師利菩薩法). Chapter 1, 705a1–705a17. Taishō Tripiṭaka, T 20, no. 1191. Accessed October 11, 2025. http://www.ntireader.org/taisho/t1171_01.html

  8. Beer, Robert. Bách Khoa Toàn Thư Biểu Tượng và Hoa Văn Mật Tạng. Hà Nội: Đông A Books và NXB Dân Trí, 2024.

  9. Bhattacharya, Benoytosh. The Indian Buddhist Iconography. Calcutta: Firma K.L. Mukhopadhyay, 1958.

  10. Brough, John. “The ‘Arapacana’ Syllabary in the Old ‘Lalita-vistara.’” Bulletin of the School of Oriental and African Studies, University of London 40, no. 1 (1977): 85–95. Cambridge University Press on behalf of the School of Oriental and African Studies. Accessed September 27, 2025. http://www.jstor.org/stable/615824

  11. Buswell, Robert E., Jr., and Donald S. Lopez Jr. “Arapacana.” The Princeton Dictionary of Buddhism. Princeton, NJ: Princeton University Press, 2014.

  12. Conze, Edward, trans. The Large Sutra on Perfect Wisdom: With the Divisions of the Abhisamayālaṅkāra. Berkeley and Los Angeles: University of California Press, 1975.

  13. Dharmarakṣa, trans. Bhadrakalpika-sūtra (賢劫經). Vol 1, Chapter 1, 4c24–4c29. Taishō Tripiṭaka, T 425, vol. 1. Accessed October 9, 2025. https://ntireader.org/taisho/t0425_01.html

  14. Dharmarakṣa, trans. Lalitavistara (普曜經). Vol. 3, Scroll 3, “Entering the Celestial Shrine”, Chapter 6, 498c06–499a21. Taishō Tripiṭaka, T 186, vol. 3. Accessed October 8, 2025. https://ntireader.org/taisho/t0186_03.html

  15. Harrington, Laura. A View of Mañjuśrī: Wisdom and Its Crown Prince in Pāla-Period India. PhD diss., Columbia University, 2002.

  16. Jampal Dewé Nyima. “The Meaning of the Six Syllables of the King of Vidyā-Mantras, the Heroic Lord Mañjuśrī.” Lotsawa House. Accessed September 27, 2025. https://www.lotsawahouse.org/tibetan-masters/jampal-dewe-nyima/meaning-manjushri-mantra

  17. Melzer, Gudrun. An Acrostic Poem Based on the Arapacana Alphabet from Gandhāra: Bajaur Collection Kharoṣṭhī Fragment 5. München, 2018; updated July 2020.

  18. Nāgārjuna. Mahāprajñāpāramitāśāstra (大智度論). Scroll 48, 408b01–409a29. Translated by Kumārajīva (鳩摩羅什) during the Later Qin dynasty. Taishō Tripiṭaka, no. 1509, vol. 25. Accessed October 7, 2025. https://ntireader.org/taisho/t1509_48.html

  19. Salomon, Richard. “An Additional Note on Arapacana.” Journal of the American Oriental Society 113, no. 2 (April–June 1993): 275–76. American Oriental Society. Accessed September 27, 2025. http://www.jstor.org/stable/603034

  20. Salomon, Richard. “New Evidence for a Gāndhārī Origin of the Arapacana Syllabary.” Journal of the American Oriental Society 110, no. 2 (April–June 1990): 255–73. American Oriental Society. Accessed September 27, 2025. http://www.jstor.org/stable/604529

  21. Skilling, Peter. “An Arapacana Syllabary in the Bhadrakalpika-Sūtra.” Journal of the American Oriental Society 116, no. 3 (July–September 1996): 522–23. American Oriental Society. Accessed September 27, 2025. http://www.jstor.org/stable/605155

  22. Strauch, Ingo. The Bajaur Collection: A New Collection of Kharoṣṭhī Manuscripts – A Preliminary Catalogue and Survey. Online version 1.1, May 2008.

  23. Thích Tịnh Hạnh, trans. Phật Nói Kinh Phổ Diệu. Đại Tập 12 – Bộ Bản Duyên III (Số 186–190), quyển III, 68. Đài Bắc: Hội Văn Hóa Giáo Dục Linh Sơn, 2000. Accessed September 27, 2025. https://www.vbeta.vn/phap-bao/phat-noi-kinh-pho-dieu-quyen-iii/8/115/1046

  24. Thích Thiện Siêu, trans. Luận Đại Trí Độ (Mahāprajñāpāramitā-śāstra). Tập III, Quyển 41, Giải thích Phẩm Ba Giả. TP. Hồ Chí Minh: Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam, 1997.

  25. Thích Trí Nghiêm, trans. Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa. Quyển 53, Hội thứ Nhất, Phẩm Biện Đại Thừa. TP. Hồ Chí Minh: Hội Ấn Hành Đại Tạng Kinh Việt Nam, 2004.

  26. Vajracharya, Gautama V. Nepalese Seasons: Rain & Ritual. New York: Rubin Museum of Art, 2016.

  27. Watt, Jeff. “Buddhist Deity: Manjushri.” Himalayan Art Resources. First published February 2000; updated February 2016, April 2017, and December 2019. Accessed July 22 , 2025. https://www.himalayanart.org/search/set.cfm?setID=170

  28. Watt, Jeff. “Buddhist Deity: Mañjuśrī, Arapacana (Iconographic Forms).” Himalayan Art Resources. February 2012. Updated September 2017 and August 2022. Accessed September 27, 2025. https://www.himalayanart.org/search/set.cfm?setID=1296

Bình luận

Đã xếp hạng 0/5 sao.
Chưa có xếp hạng

Thêm điểm xếp hạng

Đăng Ký

Để đón đọc các bài viết mới nhất từ SonMani

bottom of page