Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Âm Sahasrabhuja Sahasranetra Avalokiteshvara
- Jigme
- 1 thg 4
- 25 phút đọc
Theo các nhà sử học, hình tượng Quán Thế Âm nghìn tay xuất hiện lần đầu ở Trung Quốc vào thời Đường, do một nhà sư Ấn Độ tên Guptadeva vẽ và dâng lên hoàng đế Đường Cao Tổ (trị vì từ 618–626). Trong khoảng thời gian này, nhà Đường non trẻ đang trải qua nhiều cải cách về hành chính và quân sự để củng cố quyền lực, vừa bình ổn nội chính, vừa đối phó ngoại bang, đặc biệt là trước những đợt tiến công liên tục từ Đông Đột Quyết (Hãn quốc Turk, khu vực Mông Cổ ngày nay). Rất có thể các thách thức này là nguyên nhân khiến hoàng đế nương cầu đức Bồ-tát Thiên Thủ Quán Âm — một biểu tượng tối cao của trí tuệ toàn tri và năng lực không thể nghĩ bàn.

Về sau, chính Võ Tắc Thiên (624–705) cũng bảo trợ cho truyền thống Quán Âm Bất Không Quyến Sách và những hình tướng mật truyền khác (bao gồm cả Thiên Thủ và Thập Nhất Diện) để nương vào năng lực hộ quốc nơi bản tôn, đồng thời củng cố tính chính danh của bà cho ngôi hoàng đế.
Tìm Về Khởi Nguyên Bồ-tát Thiên Thủ Thiên Nhãn
Đức Thiên Thủ Thiên Nhãn được đề cập đến trong một số bản kinh, hầu hết bao hàm hồng danh ngài trong tiêu đề, như:
Thiên Nhãn Thiên Tý Quán Thế Âm Bồ-tát Đà-la-ni Thần Chú Kinh (Chin. 千眼千臂觀世音菩薩陀羅尼神咒經) do ngài Trí Thông chuyển ngữ trong khoảng năm 627–649. Đây là bản dịch cổ nhất nhắc đến tên Thiên Thủ Quán Âm ở Trung Quốc, tuy nhiên đà-la-ni (Skt. dharani) trong bản kinh này không giống các bộ kinh bên dưới.
Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Bồ-tát Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà-la-ni Kinh (Chin. 千手千眼觀世音菩薩廣大圓滿無礙大悲心陀羅尼經) do ngài Tôn Pháp (Skt. Bhagavaddharma, còn được gọi là Già Phạm Đạt Ma) đến từ Tây Ấn dịch trong khoảng năm 650–661. Đà-la-ni trong kinh này được xem như “lược bản” (bản ngắn) và là phiên bản “Chú Đại Bi” nổi tiếng nhất, được hầu hết Phật tử Việt Nam tụng đọc thường xuyên.
Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Bồ-tát Mẫu Đà-la-ni Thân Kinh (Chin. 千手千眼觀世音菩薩姥陀羅尼身經) do ngài Giác Ái (Skt. Bodhiruchi, còn được gọi là Bồ Đề Lưu Chí) đến từ Nam Ấn dịch vào năm 709. Tuy cùng âm tiếng Phạm, nhưng đây không phải là ngài Đạo Hy (Skt. Bodhiruchi, Hán âm Bồ Đề Lưu Chi) sống vào thế kỷ VI, vốn là người Bắc Ấn. Theo Khai Nguyên Lục quyển 9, “Sa-môn Bồ Đề Lưu Chí, bản danh Đạt Ma Lưu Chi (Skt. Dharmaruchi), Đường ngôn Pháp Hy, Thiên Hậu (Võ Tắc Thiên) đổi thành Bồ Đề Lưu Chí, Đường ngôn Giác Ái. Người Nam Ấn Độ.” Đà-la-ni trong kinh này giống với phiên bản của ngài Trí Thông.
Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Tự Tại Bồ-tát Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà-la-ni Chú Bản (Chin. 千手千眼觀自在菩薩廣大圓滿無礙大悲心陀羅尼咒本) do ngài Kim Cương Trí (Skt. Vajrabodhi) chuyển ngữ trong khoảng năm 731–736, bao gồm đà-la-ni “quảng bản” (bản dài) tiếng Trung và tiếng Phạm.
Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Bồ-tát Đại Bi Tâm Đà-la-ni (Chin. 千手千眼觀世音菩薩大悲心陀羅尼) do đệ tử của ngài Kim Cương Trí là Bất Không Kim Cương (Skt. Amoghavajra) dịch trong khoảng năm 723–774. Phiên bản này được trích dịch từ bản văn của ngài Tôn Pháp, bao gồm phụ chú, minh họa và giải thích cho bốn mươi tay của Bồ-tát. Bốn mươi đại diện cho pháp số một nghìn, mỗi tay lại có một chân ngôn (Skt. mantra) phụ trợ.
Quán Tự Tại Bồ-tát Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà-la-ni (Chin. 觀自在菩薩廣大圓滿無礙大悲心陀羅尼) do ngài Chỉ Không Thiền Hiền (Skt. Shunyadishya Dhyanabhadra) dịch vào thế kỷ XIV. Đà-la-ni trong tác phẩm này dịch theo quảng bản.
Ở Đôn Hoàng (tỉnh Cam Túc, Trung Quốc), ta tìm thấy mười hai cuộn kinh Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Bồ-tát Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà-la-ni, trong đó, Cuộn 3793 do Aurel Stein thu thập được ghi rõ: “Bản dịch hoàn thành ở Vu Điền (Khotan), do Sa-môn (Skt. shramana) Tôn Pháp từ Tây Ấn thực hiện.” Việc ngài Tôn Pháp sử dụng chữ Na-la-cẩn-trì (Narakindi) khi chuyển ngữ chữ Nilakantha trong đà-la-ni cũng góp phần đối chứng thông tin này, bởi Narakindi là phiên bản Trung Á của chữ Nilakantha tiếng Phạm. Chú thích trên là một chi tiết thú vị, giúp minh định hai biểu tượng Nhật, Nguyệt trên tay Bồ-tát trong các tác phẩm thể hiện tôn dung ngài.

Trong biểu tượng học Khotan, mặt trời và mặt trăng đại diện cho quyền lực vĩnh cửu, là mối quan tâm trọng yếu của mọi vương triều phong kiến. Khotan nằm trên Con đường Tơ lụa, có quan hệ thương mại chặt chẽ với Trung Quốc và là nơi cung cấp ngọc thạch quan trọng. Bởi vậy, không khó để ta nhận ra hình tượng Nhật, Nguyệt trên tranh vẽ Quán Thế Âm ở Đôn Hoàng bắt nguồn từ văn hóa Khotan. Do đó, ngài cũng đại diện cho sự ổn định chính trị và củng cố tính chính danh của triều đại nhà Đường.
Mặc dù ở Ấn Độ không còn tranh tượng hay kinh văn tiếng Phạm về Bồ-tát Thiên Thủ Quán Âm, hiện tướng này chắc hẳn đã từng tồn tại ở đây. Có hai lý do chính để củng cố nhận định này. Thứ nhất, theo sử sách, bức tranh đầu tiên vẽ Bồ-tát do một nhà sư Ấn Độ thực hiện vào thời vua Đường Cao Tổ. Thứ hai, toàn bộ kinh văn tiếng Trung về bản tôn đều được dịch từ tiếng Phạm (Sanskrit), bao gồm các đà-la-ni phiên âm trực tiếp từ chữ Phạm. Đặc điểm một nghìn chi cũng rất gần gũi với văn hóa Ấn Độ, bởi tụng ca Purusha Sukta trong Rigveva (1500–1000 TCN) từng miêu tả “Thần Ngã” (Purusha) như một đấng chí tôn chu biến vũ trụ với nghìn đầu, nghìn mắt, nghìn chân (Rigveda 10.90.1). Bên cạnh đó, Sahasrabahu (“một nghìn cánh tay”) và Sahasrabhuja (“một nghìn bàn tay”) là những biệt hiệu quen thuộc của thần Shiva và Vishnu, còn Sahasranetra (“một nghìn mắt”) là biệt hiệu của Đế Thích Indra.
Đáng chú ý hơn, kinh Đại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương (Skt. Arya Karandavyuha Nama Mahayana Sutra, niên đại khoảng thế kỷ V) khắc họa Bồ-tát Quán Thế Âm gần như tương đồng với khái niệm Purusha — bậc tối cao siêu việt, cội nguồn của chư thần Ấn giáo.
“Trong mắt của Quán Tự Tại Bồ-tát sinh ra Mặt trời (Aditya) và Mặt trăng (Chandra). Trên trán sinh ra Đại Tự Tại Thiên (Maheshvara, biệt hiệu của thần Shiva). Bờ vai sinh ra Đại Phạm Thiên Vương (Brahma). Nơi trái tim sinh ra Nhân Sinh Bản Thiên (Narayana, biệt hiệu của thần Vishnu). Ở răng sinh ra Đại Biện Tài Thiên (Sarasvati Devi, nữ thần trí tuệ). Trong miệng sinh ra Phong thiên (Vayu). Từ chân sinh ra Địa thiên (Dharani). Nơi bụng sinh ra Thủy thiên (Varuna).”
— Trích bản dịch của Cư sỹ Nguyên Thuận, bổ sung và hiệu đính theo bản dịch tiếng Anh của 84000: Translating the Words of the Buddha.
Từ các bằng chứng lịch sử và văn hóa, có thể mường tượng rõ sự phát triển của Bồ-tát Quán Thế Âm hai tay thành các hình tướng nhiều tay hơn, dung nạp dần các đặc điểm, thuộc tính và danh hiệu trước đây dành riêng cho thần linh Ấn giáo, để cuối cùng đạt đến hiện tướng tối thượng là Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Âm. Để hợp lý hóa tiến trình này, kinh điển Đại Thừa cổ chép rằng đức Quán Thế Âm có thể thị hiện nhiều hình tướng khác nhau, tùy theo căn cơ và sở đắc của mỗi chúng sinh mà hóa độ. Cũng theo kinh Đại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương:
“Chúng sinh thì nhiều vô số, họ phải luôn chịu sinh tử luân hồi mà chẳng hề ngừng nghỉ. Vì muốn cứu độ các chúng sinh như thế và khiến họ chứng Phật Đạo, nên Quán Tự Tại Bồ-tát này đây tùy theo mỗi loài hữu tình mà hiện thân thuyết Pháp. Nếu đáng dùng thân Phật để hóa độ, ngài liền hiện thân Phật mà thuyết Pháp cho họ. Nếu đáng dùng thân Bồ-tát để hóa độ, ngài liền hiện thân Bồ-tát mà thuyết Pháp cho họ… Nếu đáng dùng thân Đại Tự Tại Thiên để hóa độ, ngài liền hiện thân Đại Tự Tại Thiên mà thuyết Pháp cho họ. Nếu đáng dùng thân Nhân Sinh Bản Thiên để hóa độ, ngài liền hiện thân Nhân Sinh Bản Thiên mà thuyết Pháp cho họ. Nếu đáng dùng thân Phạm Vương để hóa độ, ngài liền hiện thân Phạm Vương mà thuyết Pháp cho họ… Thiện nam tử! Quán Tự Tại Đại Bồ-tát tùy theo mỗi loài hữu tình mà ứng thân hóa độ. Hóa hiện thân hình như vậy để thuyết Pháp, cứu độ các chúng sinh, và khiến họ đều sẽ chứng Đạo tịch diệt của Như Lai.”
— Lược trích bản dịch của Cư sỹ Nguyên Thuận.
Phẩm Phổ Môn trong kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Skt. Saddharma Pundarika Sutra) một lần nữa khẳng định lại vấn đề này.
“Thiện nam tử! Nếu có chúng sinh trong quốc độ nào đáng dùng thân Phật để độ thoát, Quán Thế Âm Bồ-tát liền hiện thân Phật mà thuyết Pháp cho họ. Nếu đáng dùng thân Độc Giác để hóa độ, ngài liền hiện thân Độc Giác mà thuyết Pháp cho họ… Này Vô Tận Ý! Quán Thế Âm Bồ-tát ấy thành tựu công đức như thế. Với đủ mọi thân hình, ngài chu du các quốc độ để độ thoát chúng sinh. Vì thế các ông phải nên nhất tâm cúng dàng Quán Thế Âm Bồ-tát. Quán Thế Âm Đại Bồ-tát đó ở trong nguy nạn sợ hãi có thể ban điều không sợ hãi. Cho nên ở Thế giới Kham Nhẫn (luân hồi) đều gọi ngài là bậc thí vô úy.”
— Lược trích bản dịch của Cư sỹ Nguyên Thuận.

Rất nổi tiếng ở Trung Quốc còn có sự tích công chúa Diệu Thiện, con gái thứ ba của vua Diệu Trang Vương, được kính ngưỡng là hóa thân của Bồ-tát Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Âm. Câu chuyện này nổi tiếng đến mức được nhiều nơi công nhận là khởi nguyên của hình tượng Quán Thế Âm nghìn mắt nghìn tay, đồng thời chuyển dịch bối cảnh từ Trung Quốc sang Ấn Độ, biến nó thành “sự tích Phật giáo Ấn Độ”. Dựa vào các chứng tích, tài liệu và hiện vật lịch sử, ta có thể khẳng định điều ngược lại.
Dấu tích sớm nhất về việc thờ phụng Bồ-tát Diệu Thiện đến từ một tấm bia khắc ở Thiền viện Hương Sơn (huyện Bảo Phong, tỉnh Hà Nam, Trung Quốc), do Tưởng Chi Kỳ (1031–1104, chính khách/học giả Bắc Tống) thảo nội dung và Sái Kinh (1047–1126) viết nét vào đầu năm 1100, tường thuật chuyện đời công chúa Diệu Thiện và khẳng định rằng đây là nơi Quán Âm thị hiện hình tướng Thiên Thủ Thiên Nhãn. Tuy nhiên, cũng từ bản khắc này, ta xác quyết được hai thông tin quan trọng. Thứ nhất, truyền thuyết Diệu Thiện chỉ được đông đảo quần chúng biết đến từ năm 1100, sau khi tấm bia này hình thành. Thứ hai, trước khi Tưởng Chi Kỳ đặt chân đến huyện Bảo Phong, thiền viện Hương Sơn vốn đã nổi tiếng với bức tượng Đại Bi nghìn tay nghìn mắt thờ trong Điện Quán Âm. Phiên bản đầy đủ về sự tích Bồ-tát Diệu Thiện được chép lại đầu tiên trong Long Hưng Phật Giáo Biên Niên Thông Luận (Chin. 龍興佛教編年通論), do ngài Tổ Tú viết năm 1164 (năm Long Hưng thứ II, thời Tống).
Khi Phật giáo lan tỏa đến Tây Tạng, Quán Thế Âm Bồ-tát trở thành bản tôn trọng yếu nhất nơi đây, là đức Từ Phụ cho tất cả người dân đặt trọn đức tin và tâm thành. Phổ biến nhất, ngài hiện tướng Thiên Thủ Thiên Nhãn Thập Nhất Diện (nghìn tay, nghìn mắt, mười một đầu) và Tứ Thủ Lục Tự (bốn tay sắc trắng, là hiện thân của chân ngôn Lục Tự Đại Minh Om Mani Padme Hum). Dân gian Tây Tạng truyền miệng nhiều sự tích về ngài, mỗi nơi lại có điểm dị biệt nhất định. Tuy nhiên, khi khảo cứu Vương Thống Thế Hệ Minh Giám (Tib. rgyal rabs gsal ba'i me long) — huyền sử Tây Tạng do Lama Dampa Sonam Gyaltsen (1312–1375) trước tác từ thế kỷ XIV — ta tìm thấy phiên bản trọn vẹn nhất về sự tích Quán Thế Âm thị hiện nghìn mắt, nghìn tay, mười một đầu trên cao nguyên Tây Tạng. Dưới đây là trích đoạn từ Chương V, chuyển ngữ và biên tập theo bản dịch tiếng Anh của Per Kjeld Sørensen.
Thánh Quán Thế Âm Lần Đầu Tiên Dẫn Dắt Chúng Sinh nơi Tuyết Sơn Tây Tạng Đi Trên Con Đường của Chứng Ngộ và Giải Thoát

Khi ấy, Thánh Quán Thế Âm, vì lợi ích của chúng sinh nơi Tuyết Sơn Tây Tạng, đã khởi tâm bồ-đề trước sự chứng minh của đức Phật A Di Đà (Amitabha). Ngài quỳ gối phải chạm đất, chắp hai tay trước ngực và phát nguyện như sau: “Nguyện cho hết thảy chúng sinh nơi lục đạo tam thiên đều được con gia hộ đến cảnh giới an lạc! Đặc biệt, nguyện cho tất cả hữu tình sinh sống ở miền đất tuyết Tây Tạng được nâng đỡ trên con đường yên vui! Con xin nguyện không bao giờ khởi niệm mong cầu hỷ lạc hay khinh an, dù chỉ trong một khoảnh khắc, khi tất cả chúng sinh khó độ kia chưa được con dẫn lối an toàn về giác ngộ và giải thoát! Họa chăng tâm con khởi lên ý nghĩ như vậy, xin cho đầu con vỡ tung thành mười mảnh như hạt bông, và thân con tan thành nghìn mảnh như cánh hoa sen!”
Sau đó, Bồ-tát vào trong lục đạo luân hồi, khai thị Lục Tự Đại Minh cho chúng sinh nơi đây, giúp họ được sung túc đủ đầy và hạnh phúc. Ở cõi địa ngục, ngài hóa giải mọi đau đớn từ hầm lửa ngục băng. Ở cõi ngạ quỷ, ngài xoa dịu nỗi khổ của đói khát. Ở cõi súc sinh, ngài cứu muôn loài khỏi họa sát sinh. Ở cõi người, ngài giúp họ vượt qua khổ đau của sinh, già, bệnh, chết. Ở cõi á thần (asura), ngài độ cho họ thoát khỏi tranh chấp và chiến tranh. Và ở cõi trời, ngài gia hộ chư thiên thoát khỏi nỗi sầu muộn của việc thấy trước cảnh giới đọa lạc và diệt vong.
Rồi ngài tìm đến xứ Tây Tạng tuyết phủ — miền biên viễn man di — và dạy cho dân chúng nơi đây Lục Tự Đại Minh, giúp họ được sung túc đủ đầy và hạnh phúc. Khi nhìn quanh, ngài nhận thấy vùng Thượng Tây Tạng (bao gồm miền Tây) tựa như châu Linh Dương, hình dạng giống bảo bình; vùng Hạ Tây Tạng (bao gồm miền Đông) tựa như châu Dã Điểu, hình dạng giống thửa ruộng; vùng Trung Tây Tạng (gồm tỉnh Ü và Tsang) tựa như châu Mãnh Thú, hình dạng giống kênh tưới tiêu.

Khi lên đỉnh đồi Ri Marpo (Hồng Sơn) ở Lhasa, ngài ngước lên và ngay lập tức nhận ra hồ Othang (Hồ Sữa) ở đây chẳng khác gì ngục Vô Gián (Avici), chốn sâu thẳm và thiêu đốt nhất địa ngục. Ngài thấy vô số chúng sinh nơi đó ngụp lặn trong khổ đau không gì diễn tả nổi. Họ chịu đói khát, bị nấu chín, bị thiêu sống, gào khóc trong tuyệt vọng và đau đớn đến mức ngài không cầm được nước mắt.
Khi ấy, một giọt lệ từ mắt phải rớt xuống gần hồ Othang, từ đó hiện lên Lục Độ Mẫu Tara (hoặc Xích Tôn Bhrikuti). Đức Độ Mẫu động viên ngài: “Hỡi người con thuộc dòng tộc cao quý, đừng gây thêm khổ đau trong quá trình phụng sự chúng sinh miền tuyết trắng! Ta sẽ trợ giúp ngài làm lợi lạc cho hết thảy hữu tình.” Dứt lời, Độ Mẫu hòa vào mắt phải Bồ-tát Quán Thế Âm, và về sau hóa thân làm công chúa Bhrikuti xứ Nepal.
Một giọt lệ từ mắt trái cũng rớt xuống đất và hóa thành Bạch Độ Mẫu Tara. Đức Độ Mẫu cũng động viên ngài như vậy: “Hỡi người con thuộc dòng tộc cao quý, đừng gây thêm khổ đau trong quá trình phụng sự chúng sinh miền đất tuyết! Ta sẽ trợ giúp ngài làm lợi lạc cho hết thảy hữu tình.” Dứt lời, Độ Mẫu cũng hòa vào mắt trái Bồ-tát Quán Thế Âm, và về sau hóa thân làm công chúa Văn Thành xứ Trung Hoa.
Sau đó, đức Bồ-tát đi đến bờ hồ và thuyết giảng Lục Tự Đại Minh, khai thị chân lý bằng lòng từ bi vô lượng:
“Bao ác nghiệp tích từ vô thủy,
Đọa đày trong ngục quỷ thẳm sâu.
Hữu tình khổ não bấy lâu,
Khó lòng nhẫn chịu, khóc đâu ích gì.
Nguyện xin thoát khỏi âm ty,
Lên bờ giác ngộ, thoát ly luân hồi.
Ngụp lặn giữa hồ sôi nước độc,
Cháy thiêu trong lửa thốc bạo tàn.
Không nơi nương tựa kêu van,
Chúng sinh tuyệt vọng lầm than bi sầu.
Nguyện ban mưa pháp nhiệm mầu,
Nếm cam lộ vị, hồi đầu quy y.
Bụng đói khát, khổ thân hàn nhiệt,
Biết nhờ ai, cách biệt trần gian.
Từng ngày thịt nát xương tan,
Rục thân ngục tối, lệ chan chứa lòng.
Nguyện khi nghiệp ác trả xong,
Vãng sinh Tịnh Độ, thoát vòng trầm luân.
OM MANI PADME HUM.”
Nhờ vậy, mọi hữu tình chốn địa ngục được an lập vững chắc trên đạo lộ của giác ngộ và giải thoát. Họ không còn chịu khổ vì hàn băng hỏa nhiệt, thân thể được an vui và tâm ý sạch phiền não. Sau khi hóa độ cho chúng sinh sáu nẻo ba đường đạt được hạnh phúc bằng nhiều phương tiện thiện xảo, đặc biệt là người dân xứ tuyết phủ vốn bất kham, Bồ-tát Quán Thế Âm gần như kiệt sức và phải tĩnh tại tham thiền, an trú trong đại định.

Lúc ấy, từ đỉnh núi Potala, ngài rủ mắt nhìn quanh và ngỡ ngàng rằng, cho đến giờ, chỉ có một phần trăm chúng sinh miền núi tuyết được độ thoát và an vui. Buồn bã và tuyệt vọng, ngài khởi lên một ý niệm mong cầu yên ổn và an nhàn cho mình. Ngay lập tức, lời nguyện trước đây khiến đầu ngài vỡ ra mười phần và thân thể nổ tung thành nghìn mảnh nhỏ. Ngài cầu nguyện lên đức Phật A Di Đà, và linh ứng thay, tức thời A Di Đà Phật hiện ra gia hộ, thu lại từng phần đầu và cơ thể của đức Quán Thế Âm. Phật tuyên bố:
“Hết thảy pháp hữu vi
Nương nhân duyên sinh diệt,
Gốc rễ là tham ái.
Nguyện lực đã phát ra,
Tất viên dung thành tựu.
Đại nguyện con khởi tâm,
Sức oai thần vô lượng,
Chư Phật đồng tán thán.
Trong sát-na ngắn ngủi,
Nguyện ấy sẽ viên thành.
Hỡi người con thuộc dòng tộc cao quý, đừng ủ rũ buồn đau! Mười mảnh vỡ đầu con sẽ được ban ân thành mười chiếc đầu. Mười tôn dung ấy chính là thập ba-la-mật (Skt. dasaparamita). Trên đỉnh mười đầu là quang dung A Di Đà Phật. Và như vậy, tôn nhan con thành Thập Nhất Diện Quán Âm.
Mười một đầu, Di Đà ngự phía trên
Thập Nhất Diện, Quán Âm hành tứ pháp:
Tăng ích, tức tai, kính ái, phục hàng;
Xin đỉnh lễ Quán Thế Âm tôn Thánh.
Thân nổ tung thành nghìn cánh hoa sen
Nương gia trì hóa thành nghìn tay Phật
Mỗi tay ấy, một Chuyển Luân Vương Thánh
Nơi nghìn tay, nghìn mắt tuệ chiếu soi.
Nghìn con mắt, nghìn Phật thời Hiền Kiếp
Bậc hóa thân ứng hiện vạn tướng hình
Tùy căn cơ độ thoát mọi chúng sinh
Xin đỉnh lễ Quán Thế Âm tôn Thánh.
Nghìn đức Phật cùng đồng thanh xưng tán,
Đấng Tối Thắng cũng thụ ký xoa đầu,
Tùy căn cơ độ thoát miền biên địa
Xin đỉnh lễ Quán Thế Âm tôn Thánh.”
Và như vậy, ngài ứng hiện vô số hóa thân để cứu độ cho hữu tình xứ tuyết, dẫn dắt họ đến bến bờ an lạc. Đây chính là cách Thánh Quán Thế Âm lần đầu tiên dẫn dắt chúng sinh nơi Tuyết Sơn Tây Tạng đi trên con đường của chứng ngộ và giải thoát.
Tôn Dung và Ý Nghĩa Biểu Tượng
Theo miêu tả, đức Thiên Thủ Thiên Nhãn thị hiện một nghìn tay, trong lòng mỗi bàn tay có một con mắt và cầm một loại pháp khí. Việc đồng thời điều khiển nghìn mắt nghìn tay tượng trưng cho trí tuệ viên dung và phương tiện thiện xảo, tùy theo căn cơ sở đắc của chúng sinh mà gia hộ cho họ. Với nghìn tay ứng hóa độ sinh, nghìn mắt tuệ thấu suốt khổ đau và soi tỏ đêm trường huyễn vọng, ngài được kính ngưỡng là bậc Thiên Nhãn, Thiên Tý, Thiên Quang.
Trong Nghệ Thuật Trung Hoa Cổ
Bồ-tát thường hiện bốn mươi tay chính và hai tay phụ, xung quanh tỏa ra một nghìn tay nhỏ (mang tính ước lệ) như hào quang. Theo bản dịch của ngài Bất Không Kim Cương, bốn mươi tay được phụ trợ bởi bốn mươi chân ngôn, mỗi tay trì giữ một pháp khí hoặc thủ ấn cụ thể. Theo đó, mỗi bàn tay khi được cầu nguyện đến sẽ giúp hóa giải một loại tai ương. Có nơi diễn giải rằng, bốn mươi tay nhân với hai mươi lăm hữu tạo thành pháp số một nghìn, nêu biểu cho hết thảy chúng sinh trong luân hồi được ngài tiếp độ. Tùy theo từng niên đại và truyền thống mà miêu tả bốn mươi tay mang nhiều sai khác, ít khi trùng khớp hoàn toàn giữa kinh điển và mỹ thuật.
Tác phẩm tuyệt mỹ và điêu luyện nhất về Bồ-tát Thiên Thủ Thiên Nhãn trong nghệ thuật Trung Hoa cổ được tìm thấy ở Đôn Hoàng, hiện trưng bày tại Bảo tàng Anh Quốc, mã hiệu 1919,0101,0.35 (do Aurel Stein thu thập đầu thế kỷ XX).

Trong bức tranh này, đức Quán Thế Âm hiện tướng mười đầu và một đầu Phật A Di Đà ngự trên. Ngài có bốn mươi tay chính và hai tay phụ kết ấn “hiệp chưởng” (Skt. anjali mudra) trên đỉnh đầu, 960 tay còn lại xếp thành bối quang sau lưng. Bốn mươi tay kết ấn hoặc trì giữ những pháp khí rất cụ thể như sau:
Tay phải | Tay trái |
---|---|
1. Hóa Phật 2. Đĩa chakra 3. Hoa sen trắng 4. Đĩa mặt trăng (nguyệt luân) 5. Chày kim cương ba chẽ (Skt. vajra) 6. Hoa sen tím 7. Móc sắt (thiết câu; Skt. ankusha) 8. Tạng kinh 9. Trường thương 10. Cung 11. Dây bẫy (quyến sách; Skt. pasha) 12. Xuyến ngọc 13. Cành liễu 14. Mũi tên 15. Vỏ ốc (pháp loa) 16. Bảo kiếm 17. Bình tịnh thủy (Skt. kalasha) 18. Thủ ấn “vô úy” (Skt. abhaya mudra) 19. Thủ ấn “thí nguyện” (Skt. varada mudra) 20. Thủ ấn “thiền định” (Skt. dhyana mudra) | 21. Cung điện 22. Phất trần trắng (Skt. chamari) 23. Hoa sen xanh (Skt. utpala) 24. Đĩa mặt trời (nhật luân) 25. Gương 26. Gậy mật thừa khatvanga 27. Rìu 28. Tập sách 29. Đám mây 30. Gậy tích trượng 31. Chày kim cương một chẽ 32. Linh pháp 33. Tràng hạt 34. Chùm nho 35. Ngọc như ý (Skt. chintamani) 36. Gậy dài 37. Bình thủy (Skt. kundika) 38. Thủ ấn vô úy 39. Thủ ấn thí nguyện 40. Thủ ấn thiền định |
Bốn mươi pháp khí và thủ ấn có thể phân thành bốn nhóm cơ bản:
A. Nhóm biểu hiệu hoàng gia
Cung điện nơi tịnh độ Phật biểu trưng cho hoàng đế là đấng Thiên Tử.
Mặt trăng và mặt trời đại diện cho quốc thái dân an, thái bình thịnh trị.
Cung, tên, bảo kiếm, trường thương và rìu bảo đảm an ninh và toàn vẹn lãnh thổ.
Phất trần, ngọc như ý và chùm nho (cũng là rượu) tượng trưng cho sự huy hoàng thế tục.
Đĩa chakra và xuyến ngọc là vương quyền thiên mệnh.
B. Nhóm biểu tượng tinh thần
Thủ ấn vô úy ban cho bình an không sợ hãi.
Thủ ấn thí nguyện viên mãn tâm nguyện của môn đệ tín tâm.
Thủ ấn thiền định chiêm nghiệm giải thoát.
C. Nhóm biểu tượng liên quan đến tăng lữ, gồm gậy khatvanga, gậy dài, gậy tích trượng, chày kim cương, linh pháp, tràng hạt, tập sách và kinh điển.
D. Nhóm biểu tượng liên quan đến bản tôn, gồm bình thủy và tịnh thủy, móc sắt, dây bẫy, vỏ ốc, gương, cành liễu, đám mây và ba bông hoa sen (trắng, xanh, tím).
Trong Nghệ Thuật Tây Tạng
Trên cao nguyên Tây Tạng và khu vực Himalaya nói chung, Quán Âm Thiên Thủ Thiên Nhãn Thập Nhất Diện là hiện tướng phổ biến và nổi tiếng nhất, gắn liền với huyền tích đã miêu tả ở đoạn trước. Hình họa bản tôn mang tính mô phạm cao, hầu như nhất quán trong mọi truyền thống Phật giáo nơi đây.

Thường gặp nhất, ngài hiện sắc thân trắng, đứng thẳng trên đĩa mặt trăng trắng và đài sen đa sắc. Hai chân biểu thị rằng ngài không còn dính mắc trong luân hồi và niết-bàn, đĩa mặt trăng nêu biểu cho bồ-đề tâm, còn đài sen là tâm buông xả. Thân thể Bồ-tát được trang hoàng bởi năm trang sức lụa và tám trang sức ngọc của Báo thân (Skt. sambhogakaya), cùng tấm da nai đặc trưng phủ trên vai trái. Da nai đại diện cho lòng bi mẫn ngài hướng đến tất cả chúng sinh.
Năm trang sức lụa bao gồm áo lót trắng may bằng lụa thêu kim tuyến (Skt. kashikamsuka); khố dhoti (Skt. panchalika) bảy hoặc nhiều màu; dải lụa đeo chéo vai màu vàng; dải lụa đa sắc thắt mũ miện; và khăn lụa dài phủ qua vai màu xanh dương. Năm món này biểu trưng cho Ngũ Vô Ngại Trí.
Tám trang sức ngọc bao gồm mũ miện năm đỉnh làm từ đá quý tự nhiên; khuyên tai vàng; vòng cổ ngắn; vòng cổ trung bình chạm tới tim; vòng cổ dài chạm tới dưới rốn; vòng cổ tay, cánh tay; vòng chân; và thắt lưng ngọc gắn chuông nhỏ bằng bạc. Tám trang sức ngọc thường gộp thành nhóm sáu, biểu trưng cho sáu ba-la-mật (Skt. paramita) là nhẫn nhục, bố thí, trì giới, tinh tiến, thiền định và trí tuệ.
Bồ-tát có mười một đầu xếp thành năm tầng, kích thước nhỏ dần khi lên cao. Ba tầng dưới, mỗi tầng gồm ba khuôn mặt xen kẽ màu trắng, đỏ và xanh lục. Toàn bộ chín đầu đều có hai mắt, tôn dung thanh bình và mỉm cười, đội vương miện ngọc. Tầng thứ tư hiện gương mặt xanh đen phẫn nộ của đức Đại Hắc Thiên Mahakala, gồm ba mắt hung tợn và há miệng nhe nanh sắc. Ở tầng thứ năm là diện mặt sắc đỏ của đức Phật A Di Đà.

Về cơ bản, mười một mặt mang ý nghĩa biểu tượng tương đồng với hiện tướng Thập Nhất Diện Quán Âm Ekadashamukha Avalokiteshvara. Ba mặt màu trắng đại diện cho thân Phật, ba mặt màu đỏ là khẩu Phật, và ba mặt màu xanh lục là tâm Phật. Diện mặt màu xanh đen của Đại Hắc Thiên là lòng từ bi phẫn nộ, làm lợi lạc cho chúng sinh khó khuất phục. Diện mặt A Di Đà Phật biểu thị rằng Bồ-tát Quán Thế Âm cũng thuộc về Liên Hoa Bộ (Skt. padma-kula). Ngoài ra, bốn màu còn tượng trưng cho bốn công hạnh giác ngộ:
Màu trắng là tức tai — tịnh hóa, thiền định và chế ngự cảm xúc phiền não.
Màu xanh lục là tăng ích — tăng trưởng phẩm chất, kiến thức và trí tuệ.
Màu đỏ là kính ái — câu triệu và ái phục.
Màu xanh đen là hàng phục.
Ngài hiện tám tay chính và 992 tay phụ, tỏa ra như nan quạt. Mỗi bàn tay đều có một con mắt trong lòng, theo đó năm ngón tay đại diện cho năm ba-la-mật “phương tiện” (bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tiến, thiền định), còn bản thân con mắt là ba-la-mật “trí tuệ” thứ sáu. Tám tay chính của Bồ-tát trì lần lượt như sau:
Hai tay đầu tiên chắp lại giữ minh châu như ý — nhận thức trực tiếp về pháp tính, bản chất thực sự của sự vật hiện tượng. Viên ngọc như ý biểu trưng cho bồ-đề tâm, là tâm giác ngộ thanh tịnh toàn hảo của Bồ-tát Quán Thế Âm, đáp ứng mọi nguyện cầu.
Tay phải thứ hai cầm tràng hạt pha lê — dẫn dắt chúng sinh thoát khỏi luân hồi, tựa như cách lần hạt này sang hạt khác.
Tay trái thứ hai giữ cành hoa sen — một biểu tượng của trí tuệ thuần khiết và thanh tịnh. Dù Bồ-tát thị hiện nơi luân hồi uế trược, ngài vẫn hoàn toàn trong sạch và không bị nhiễm ô vấy bẩn.
Tay phải thứ ba kết ấn thí nguyện —truyền trao sự thành tựu vô song cho hữu tình. Theo một số miêu tả, từ ngón tay ngài tuôn chảy nước cam lộ hướng về chúng sinh cõi ngạ quỷ, giải thoát họ khỏi khổ đau. Chi tiết này khiến ta liên hệ đến hiện tướng Quán Âm Không Hành Khasarpana ban trải cam lộ cho ngạ quỷ Suchimukha.
Tay trái thứ ba cầm bình quán đỉnh — biểu tượng của sự tịnh hóa mọi tiêu cực, ác nghiệp, chướng ngại và phiền não.
Tay phải thứ tư trì giữ pháp luân — ngụ ý rằng ngài đang chuyển bánh xe pháp trong toàn vũ trụ, vượt trên không–thời gian. Ngoài ra, nó cũng nêu biểu cho cách ngài ban tặng thành tựu thế gian.
Tay trái thứ tư cầm cung tên — biểu thị rằng Bồ-tát sở hữu phương tiện thiện xảo và trí tuệ vô ngại, có thể độ thoát mọi hữu tình.
Trong Nghệ Thuật Việt Nam
Tiêu biểu nhất cho hiện tướng Quán Thế Âm nghìn tay nghìn mắt ở Việt Nam là pho tượng ở chùa Bút Tháp, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh — được công nhận là Bảo vật Quốc gia năm 2012.

Tượng được tạo tác năm 1656, bằng gỗ phủ sơn son thếp vàng và mang một số điểm khác biệt so với các tượng cùng loại ở Việt Nam. Theo nhà nghiên cứu Trang Thanh Hiền, tượng chùa Bút Tháp bố cục gọn gàng chặt chẽ, gồm bốn mươi hai cánh tay lớn và 789 cánh tay nhỏ tỏa ra như hào quang sau lưng. So với tượng Quán Thế Âm chùa Đa Tốn, với các tay nhỏ xếp hình dẻ quạt bị giới hạn trong năm lớp, bối quang thiên thủ của tượng chùa Bút Tháp đã mở rộng thành nhiều vòng tròn đồng tâm, lan dần ra như hào quang tỏa chiếu rộng khắp không gian.
Đây là bức duy nhất trong hệ thống tượng Phật cổ ở Việt Nam ghi niên đại năm tạc và danh tính người tạc. Các tượng khác đa phần là của chùa làng, do thập phương công đức, do đó quy mô và tầm vóc hạn chế hơn. Về mặt tạo hình, khối bệ tượng bên dưới là hình vuông, tương phản với vòng hào quang hình tròn phía trên, ở đoạn giữa có hình rồng ngậm ngọc đội tòa sen, tạo nên tỷ lệ rất hài hòa cân đối. Tổng thể bố cục cho ta thấy sự tính toán mực thước chứ không hề tùy tiện ngẫu hứng. Điều này phản ánh kỹ thuật tạo hình đã đạt tới trình độ cao, hoàn toàn vượt thoát tính “dân gian” của những pho tượng khác.

Ngoài ra, dấu ấn từ nghệ thuật Tây Tạng càng khiến tôn tượng thêm phần đặc biệt. Khi để ý kỹ, ta nhận ra cặp tay chắp giữa ngực Bồ-tát không áp sát hẳn nhau như thường lệ, mà khum lại tạo nên khoảng trống ở giữa. Đối với hình tượng Quán Thế Âm trong mỹ thuật Kim Cương Thừa, nằm trong khoảng trống này là viên minh châu như ý. Ngoài ra, mười một đầu Bồ-tát được xếp thành năm tầng, ba tầng dưới mỗi tầng có ba mặt quay ra ba hướng, tầng thứ tư gồm hai đầu, hợp thành tổng mười một, trên đỉnh ngự hóa Phật A Di Đà — rất tương đồng với tạo hình ở Tây Tạng. Khi xem xét bối cảnh lịch sử và văn hóa thế kỷ XVII, dòng chảy nghệ thuật từ Tây Tạng — nhà Minh Trung Quốc — Đại Việt càng trở nên rõ nét.
Sức Mạnh của Lòng Từ Bi
Xuyên suốt chiều dài lịch sử, hình tượng Bồ-tát Quán Thế Âm không ngừng biến đổi và phát triển, dung hòa với văn hóa và thẩm mỹ địa phương. Trong tiến trình ấy, sắc tướng bên ngoài của ngài dần trở nên phức tạp và siêu nhiên hơn, phản ánh mong nguyện nương cầu ngày càng lớn của người dân đến ngài. Sự tha thiết ấy ngày một lớn lên, để rồi kết tinh thành hiện tướng Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Âm — bậc Bồ-tát quyền năng, có đủ mọi phương tiện thiện xảo, trí tuệ và từ bi để cứu độ chúng sinh sáu cõi.
Xin trích lời mở đầu cuốn sách Quán Âm Thiên Thủ (The Thousand-Armed Avalokiteśvara) của học giả Lokesh Chandra để thay lời kết cho bài viết khá dài này. “Quán Thế Âm là điều ẩn mật phía bên kia bờ, nơi sinh linh chốn hồng trần hòa mình vào ánh sáng tuệ giác. Ở nơi ngài, đức tin trở thành chuyến viễn du của thiện mỹ và thanh lương, của chân lý và sáng suốt, của nụ cười và khúc hòa ca trong thế giới huyễn mộng, phù du này. Ẩn sâu nơi ngài là dòng chảy miên viễn của sáng tạo và nghệ thuật, của tu dưỡng và giải thoát. Những khả thể vô tận của sức sáng tạo ấy tuôn chảy thành kinh văn, linh ảnh và thánh tượng, không ngừng hóa hiện làm vô vàn hiện tướng Quán Thế Âm.”
Dịch và biên khảo: Jigme
Tư Liệu Tham Khảo
84000. The Basket’s Display (Kāraṇḍavyūha, za ma tog bkod pa, Toh 116). Translated by Peter Alan Roberts and team. Online publication. 84000: Translating the Words of the Buddha, 2025. https://84000.co/translation/toh116
Beer, Robert. Bách Khoa Toàn Thư Biểu Tượng và Hoa Văn Mật Tạng. Hà Nội: Đông A Books và NXB Dân Trí, 2024.
Beer, Robert. “Thousand-armed Avalokiteshvara (Chenrezig).” Tibetan Buddhist and Newar Tantric Art. Accessed March 28, 2025. https://www.tibetanart.com/Product.asp?PID=14
Buswell, Robert E., Jr., and Donald S. Lopez, Jr. The Princeton Dictionary of Buddhism. Princeton, NJ: Princeton University Press, 2013.
Chandra, Lokesh. The Thousand-Armed Avalokiteśvara. New Delhi: Abhinav Publications, 1988.
Chandra, Lokesh, and Nirmala Sharma. Buddhist Paintings of Tun-Huang: In the National Museum, New Delhi. New Delhi: Niyogi Books, 2012.
Diệu Hỷ (Đavis Le). “Tượng Quan Thế Âm chùa Bút Tháp.” Tạp chí Nghiên cứu Phật học, số tháng 11/2022. Accessed March 31, 2025. https://tapchinghiencuuphathoc.vn/tuong-quan-the-am-chua-but-thap.html
Dudbridge, Glen. The Legend of Miaoshan: Revised Edition. Oxford: Oxford University Press, 2004.
Hong, Tsai-Hsia. Compassionate Kuan-Yin Bodhisattva: From India to China. Master’s thesis, Hsi Lai University, 2000.
Nguyên Thuận, trans. Kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Site of Enlightenment. Updated June 4, 2024. https://siteofenlightenment.org/Tripitaka/?f=Kinh-Dieu-Phap-Lien-Hoa/7
Nguyên Thuận, trans. Kinh Đại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương. Site of Enlightenment. Updated August 19, 2021. https://siteofenlightenment.org/Tripitaka/?f=Kinh-Dai-Thua-Trang-Nghiem-Bao-Vuong/1
Sørensen, Per Kjeld. Tibetan Buddhist Historiography: The Mirror Illuminating the Royal Genealogies. Wiesbaden: Otto Harrassowitz, 1994.
Stein, Aurel. The Thousand Buddhas: Ancient Buddhist Paintings from the Cave-Temples of Tun-Huang on the Western Frontier of China. London: Bernard Quaritch, 1921.
Trang Thanh Hiền. Hình Tượng Quan Âm Thiên Thủ Thiên Nhãn ở Việt Nam. Hà Nội: Nhà Xuất Bản Văn Hoá – Thông Tin, 2005.
Wangchen Rinpoche. Buddhist Fasting Practice: The Nyungne Method of Thousand Armed Chenrezig. New York: Snow Lion, 2009.
Watt, Jeff. “Buddhist Deity: Avalokiteshvara (Eleven Faces).” Himalayan Art Resources. Published May 2009. Last modified April 2020. https://www.himalayanart.org/search/set.cfm?setID=414
Comments